Văn học Việt Nam thế kỷ XX
Tú Mỡ, người thầy của thơ trào phúng và biếm họa (Phần 1)
Tú Mỡ, họ Hồ, tên gia đình là Hồ Trọng Hiếu, gốc quê Nghệ An, có họ hàng với Hồ Xuân Hương và kiệt tác về thơ Nôm trào phúng của nước ta.
Vũ Đình Long và cuộc cách tân sân khấu kịch nói Việt Nam (Phần 3 và hết)
Qua giới thiệu của Nguyễn Công Hoan, Vũ Đình Long biết “chọn mặt gửi vàng” nơi Tô Hoài, để có Con Dế Mèn và tiếp đó là Dế Mèn phiêu lưu ký; và sau khi Tô Hoài đã quen biết và biết cách “viết như chạy thi”, đã có sự tin cậy để hàng tháng đến Tân dân nhận tiền và giao bản thảo, ông biết đón cả Nam Cao - thường đi kèm Tô Hoài, lúc này đang là cây bút mới, còn rất rụt rè...
Vũ Đình Long và cuộc cách tân sân khấu kịch nói Việt Nam (Phần 2)
Từ giữa những năm hai mươi của thế kỷ XX, khi còn là công chức của Nha Học chính Đông Dương, Vũ Đình Long đã quan tâm đến các hoạt động in ấn và xuất bản, một loại nghề nghiệp mang tính chất kinh doanh và nhằm vào mục tiêu kinh doanh; một hoạt động như một nghề tự do trong nền sản xuất tư sản, trong xã hội thuộc địa, mới chỉ xuất hiện ở xứ ta từ đầu thế kỷ XX, và trở nên sôi nổi vào những năm hai mươi và ba mươi.
Vũ Đình Long và cuộc cách tân sân khấu kịch nói Việt Nam (Phần 1)
Nói đến Vũ Đình Long tôi muốn nhấn mạnh hai đóng góp lớn của ông cho kịch hiện đại. Đó là tác gia kịch nói đầu tiên trong lịch sử sân khấu Việt Nam; và là người góp công lớn tổ chức nên thị trường văn chương, trong tư cách ông chủ báo, chủ xuất bản.
Tình yêu và bi kịch trong Tố Tâm như men say của văn học lãng mạn (Phần 4 và hết)
Từ năm 1925, năm Tố Tâm ra đời cho đến 1930, là những năm cuộc sống sôi động trong rất nhiều sự kiện gắn với phong trào yêu nước, qua các cuộc vận động đòi thả tự do cho cụ Phan Bội Châu, đòi để tang cụ Phan Châu Trinh. Năm Phạm Hồng Thái ném quả bom ở Sa Điện Quảng Châu. Năm thành lập nhiều tổ chức yêu nước và cách mạng. Năm chuẩn bị đưa tới cuộc khởi nghĩa Yên Bái và phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh...
Tình yêu và bi kịch trong Tố Tâm như men say của văn học lãng mạn (Phần 3)
Văn xuôi viết bằng Quốc ngữ đã có sớm trước Tố Tâm vài thập niên, kể từ Thầy Lazaro Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản.
Giáo sư Cao Xuân Huy: “Tiên ông” trong thế giới hiện đại
Tôi được tiếp xúc với Giáo sư Cao Xuân Huy lần đầu tiên vào năm 1956, ngày tôi năm thứ nhất khoa văn Đại học Tổng hợp Hà Nội, trong môn Logic học lúc này được gọi là Luận lý học.
Tình yêu và bi kịch trong Tố Tâm như men say của văn học lãng mạn (Phần 2)
Tố Tâm ham thích văn chương và còn biết làm thơ. Viết thư cho Đạm Thủy cũng réo rắt, lâm ly không khác gì chàng sinh viên Cao đẳng.
Tình yêu và bi kịch trong Tố Tâm như men say của văn học lãng mạn (Phần 1)
Để xác định Tố Tâm như một tiểu thuyết ái tình tưởng cũng nên dừng lại ở tình yêu Tố Tâm - Đạm Thủy để làm rõ thêm các phẩm chất mới của nó, so với tất cả những mối tình của các cặp bạn tình, của các cặp giai nhân - tài tử đã có trong văn học cổ điển. Đây là một tình yêu không đi đến hôn nhân.
Tố Tâm: Bước khởi đầu của tiểu thuyết tâm lý Việt Nam
Tố Tâm, Hoàng Ngọc Phách viết xong 1922, in năm 1925, là một cuốn tiểu thuyết mới đúng như ý đồ và mong muốn của tác giả. Đó là “viết một quyển tiểu thuyết khác hẳn những tiểu thuyết đã có, cả về hình thức lẫn tinh thần”.
Ngô Tất Tố: Nhà văn hóa tiên phong của văn học hiện đại Việt Nam (Phần 2 và hết)
Sinh năm 1893 - chỉ kém tuổi Tản Đà thế mà Ngô Tất Tố đã làm được một cuộc bứt phá ngoạn mục, để đuổi kịp, và vượt lên đứng hàng đầu trào lưu hiện thực với Tắt đèn (đăng báo-1936; in sách -1939); Việc làng (đăng báo-1940; in sách 1941); Lều chõng (đăng báo-1939, in sách-1941), đúng vào lúc trào lưu hiện thực có sứ mệnh thay thế trào lưu lãng mạn, và đạt đỉnh cao của thành tựu cùng với Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng vào những năm 1936-1939; và tiếp tục giữ vững vị trí đó, cùng với Nam Cao, Tô Hoài, Mạnh Phú Tư, Nguyễn Đình Lạp vào nửa đầu những năm 40. Vậy là ông đứng cùng vị trí với thế hệ Nguyễn Công Hoan, người thua ông 10 tuổi; với Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng… ngót 20 tuổi, và Nam Cao, Tô Hoài... ngót 30 tuổi.
Ngô Tất Tố: Nhà văn hóa tiên phong của văn học hiện đại Việt Nam (Phần 1)
Ngô Tất Tố không chỉ là một nhà văn hiện thực nổi tiếng với "Tắt đèn" mà còn là một nhà văn hóa, học giả nghiên cứu sâu sắc về văn hóa dân tộc và phương Đông. Với những công trình nghiên cứu về Lão Tử, Mặc Tử và Nho giáo, ông đã góp phần quan trọng vào quá trình hiện đại hóa văn học và báo chí Việt Nam, đồng thời phản ánh sâu sắc cuộc sống và số phận người nông dân trong xã hội phong kiến.
Ngô Tất Tố với "Tắt đèn": Khúc ca đau thương của người nông dân (Phần 2 và hết)
Số phận người nông dân Việt Nam, tình cảnh cái làng quê Việt Nam, con đường đất nước và dân tộc Việt Nam đi tìm sự ấm no và thoát cảnh đói nghèo như thế nào trong một nền canh tác thô sơ, trong sự bó chặt và dồn nén nhiều tầng quan hệ gia tộc và làng xã, trong sự kìm hãm của bao nền nếp tâm lý, phong tục cổ hủ... đó là các vấn đề lưu niên của nhiều thế kỷ và vẫn còn là vấn đề của thế kỷ mới này.
Ngô Tất Tố với "Tắt đèn": Khúc ca đau thương của người nông dân (Phần 1)
Hơn 80 năm kể từ khi ra đời, Tắt đèn của Ngô Tất Tố vẫn là ánh nến soi sáng số phận người nông dân Việt Nam trong đêm dài lịch sử. Tác phẩm không chỉ phản ánh hiện thực xã hội mà còn khẳng định tài năng và tâm huyết của nhà văn với nông thôn và dân tộc.
Ngô Tất Tố – Nhà văn hóa với tầm nhìn vượt thời đại
Ngô Tất Tố (1893–1954) là một tượng đài lớn của văn chương Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Với khối lượng tác phẩm đồ sộ, ông không chỉ phản ánh sâu sắc các vấn đề xã hội đương thời mà còn góp phần định hình con đường hiện đại hóa văn học, đưa tư tưởng cách mạng và đổi mới hòa quyện vào mỗi trang viết.