
Trong sự chia đôi này, phần tích cực, tiến bộ, cách mạng là thuộc về văn học “tả thực xã hội”: Bên cái nền văn học thần bí dâm ô của giai cấp phú hào, đã bắt đầu gây dựng lên một nền văn học mới của giai cấp vô sản. Nền văn học này quyết nhiên là một nền văn học cách mạng. Cái hình thức của nó khuynh hướng hẳn về tả thực mà nội dung của nó là về xã hội. Cái trào lưu văn học này ta có thể bao gồm trong một danh từ là: Tả thực xã hội (le réalisme socialiste). Văn chương của giai cấp vô sản tất là văn chương tả thực xã hội vậy. Chúng ta tán thành nhiệt tình của nhà lý luận, cổ vũ cho một nền văn học mới của giai cấp vô sản và phục vụ cho giai cấp vô sản, ở thời điểm bấy giờ. Nhưng cách phân đôi rạch ròi thế giới văn học theo tiêu chí giai cấp như trên là quá đơn giản, không bao quát được đầy đủ diện mạo đời sống văn chương. Xem tất cả những gì không thuộc về văn chương tả thực, đều là “thần bí, dâm ô”, và “phục vụ cho giai cấp phú hào”, một cách phân tuyến và gạt bỏ triệt để như vậy quả là không ổn. Và sự định vị giá trị văn chương theo hai tiêu chí hiện thực và xã hội như trên càng không thể chứng minh có biết bao áng thơ văn bất hủ trong di sản văn học dân tộc và nhân loại, không thể lọt vào cái khung trên, cũng không gắn với bất cứ hiệu ứng giáo dục cụ thể nào, vẫn cứ trường tồn với con người.
Một cách nhìn, một thái độ rộng rãi, khoan dung chỉ có thể có khi cuộc sống đi trọn quá trình của nó, và làm hiện rõ cùng lúc hai nhu cầu lớn của đất nước cách mạng và canh tân (hoặc đổi mới), giải phóng và phát triển. Hải Triều cùng các đồng chí của ông chưa thể vươn tới cái nhìn đó trong bối cảnh đương thời. Điều cần ghi nhận ở đây là bầu nhiệt huyết của ông, là tư thế chiến đấu của ông cho sự thắng lợi của một tư tưởng mới, trong buổi đầu thâm nhập vào Việt Nam đã có ngay khả năng đáp ứng cho nhu cầu chính trị cấp bách của thời cuộc. Thời của sự triệt để trong ý thức giai cấp, của nhiệt tình truyền bá tư tưởng xã hội chủ nghĩa và ý thức quốc tế vô sản trong những thể nghiệm đầu tiên đầy sức hấp dẫn. Ông khó tránh những “đòn thừa” của một chiến binh sôi nổi; và cố nhiên cũng chưa thể đòi hỏi ở ông sự chín chắn, già giặn của một triết gia, một chuyên gia về triết học hoặc lý luận nghệ thuật.
Nhưng trên nhiệt tình triển khai lý luận văn nghệ Marxist, trên ý thức cổ vũ cho văn học tả thực xã hội trong nước và văn học xã hội chủ nghĩa thế giới... vẫn có những phần đất nhất định cho Hải Triều đi vào các yêu cầu nghệ thuật của nền văn học mới và của thế giới văn chương nói chung. Ở tư cách nhà lý luận văn chương tả thực xã hội, thì đây quả là phần đất Hải Triều đã thật sự có những đóng góp chắc chắn còn có ý nghĩa bền lâu đối với sự phát triển của văn học mới, như một bộ phận của văn học nhân loại trên con đường phát triển theo chiều hướng chủ nghĩa hiện thực: “Một nhà văn khuynh hướng về chủ nghĩa tả thực xã hội chỉ nên phụng sự sự thật, chứ không nên buộc sự thật phải phụng sự mình. Trong khi đem hết văn tài, đem hết tình ý để diễn tả cuộc đời một cách tinh vi và linh hoạt, như thế là nhà văn đã giữ kín cho văn chương ít nhiều xu hướng rồi. Nhưng cái xu hướng ấy không phải là xu hướng của tác giả mà chính là xu hướng khách quan của sự vật ở đời, cái xu hướng tất nhiên của các phần tử trong xã hội vậy (...). Tôi nghĩ một thiên tiểu thuyết hay cũng giống như cái điệu đàn đã thoát tiếng tơ mà nhà văn sĩ biết trọng nghệ thuật chắc không bao giờ lại đi bắt chước thằng cha nhắc tuồng, vọt ra ngồi chỏm ngỏm giữa sân khấu”.
Đọc lại Hải Triều hôm nay quả không khó khăn trong việc nhận ra những mặt chưa đầy đủ hoặc còn sơ hở trong các lĩnh vực triết học duy vật và lý luận nghệ thuật tả thực xã hội mà Hải Triều chủ trương, nhằm bảo vệ, cổ vũ cho việc xây dựng một nền nghệ thuật mới của giai cấp vô sản, của cách mạng xã hội chủ nghĩa, theo tấm gương Liên Xô và Cách mạng tháng Mười lúc này còn đang tỏa ánh hào quang. Nhưng việc nhận lại những mặt còn sơ hở, hoặc để ngỏ của lý luận không làm giảm nhẹ niềm ngưỡng mộ của chúng ta đối với Hải Triều, người chiến sĩ tiên phong trên lĩnh vực văn hóa, người xây nền móng cho nền văn hóa mới Việt Nam từ những năm 1930 của thế kỷ trước. Đó là thời kỳ mà những yêu cầu về chính trị đặt ra cho dân tộc phải chiếm vị trí hàng đầu. Dẫu có bàn về văn hóa, văn học, nghệ thuật, hoặc bất cứ lĩnh vực nào của đời sống xã hội và tinh thần cũng không được phép xa rời đời sống chính trị, và các yêu cầu của chính trị. Chính ở sự nhạy cảm đó mà tất cả mọi nội dung được Hải Triều đề cập, từ các vấn đề lý luận chung của triết học, của văn hóa và văn học - nghệ thuật cho đến sự bình luận về một tác gia hoặc tác phẩm cụ thể đều được tác giả soi nhìn từ một góc độ mới, để có thể qua đó nhận dạng về ông như một chiến sĩ văn hóa trước khi nói đến một nhà văn hóa, một tư thế chính trị hóa văn hóa trước khi nói đến văn hóa hóa chính trị. Từ nhận thức trên, có thể nói đến một Hải Triều, một ánh lửa Hải Triều trong sự tỏa sáng của nhiệt tình và trí tuệ.
Sau cách mạng Tháng Tám, từ năm 1945 đến 1954 là năm ông qua đời, Hải Triều phải đảm trách nhiều công việc quan trọng trên lĩnh vực tuyên truyền, báo chí, văn hóa, trí thức vận... Cho nên, ông không còn nhiều thời gian dành cho nghiên cứu lý luận văn học nghệ thuật, ngoài cuốn Chủ nghĩa Mác xít phổ thông, được khởi thảo từ 1937, xuất bản năm 1938 rồi tiếp tục được in tái bản sau 1945. Cuốn sách trở thành tài liệu học tập quan trọng cho các buổi sinh hoạt, hội thảo của Hội nghiên cứu chủ nghĩa Marx - được thành lập sau khi Đảng tuyên bố tự giải tán và rút vào bí mật vào ngày 11/11/1946, cho đến tháng 2/1951 là năm Đảng trở lại hoạt động công khai và tổ chức Đại hội lần thứ II lấy tên mới là Đảng Lao động Việt Nam.
Mất ở tuổi 46, rõ ràng không chỉ là quá sớm đối với Hải Triều, mà còn là quá sớm, và rất đáng tiếc đối với giới tuyên truyền, nghiên cứu, lý luận văn học và báo chí Việt Nam sau 1954. Bởi, dường như hầu hết, nếu không nói là tất cả những tên tuổi tiêu biểu của báo chí và văn chương sau 1945 đều đặt hy vọng rất lớn vào vai trò của ông như một trong những người dẫn đầu. Nhớ Hải Triều, tôi lại nghĩ đến Nam Cao, người sinh sau ông bảy năm, nhưng lại mất trước ông ba năm; cả hai tuy ra đi quá sớm, nhưng vẫn đủ để lại một gương mặt thật sáng giá thuộc thế hệ Vàng của văn chương - học thuật Việt Nam hiện đại.