Sách Văn chương và hành động, năm 1936 bị chính quyền thực dân thu hồi, thế nhưng đến năm 1939, khi tạp chí Tao đàn của ông chủ Tân dân và chủ bút Lan Khai ra đời thì một số bài quan trọng nhất của cuốn sách sẽ được Hoài Thanh cho in, trong đó có các bài Thành thực và tự do trong văn chương, và Thế nào là nội dung và hình thức một tác phẩm văn chương (cùng in trong Tao đàn, số 6/1939),...
Đòi cho văn chương được tự do, xem tự do là yêu cầu cốt thiết của sáng tác - đó là câu chuyện Hoài Thanh quan tâm hàng đầu. Và cũng là câu chuyện có tính chất muôn đời trong lịch sử sáng tạo văn học - nghệ thuật.
“Bao giờ cũng vậy, hễ chính quyền can thiệp vào văn học là chỉ có hại cho văn học"
Chân lý này không đúng hoàn toàn. Nếu là một nền chính trị tiên tiến thì lại là động lực của tiến bộ.
Cố nhiên nếu quá chăm sóc thì lại thành cây trong chậu kiểng.
Đưa cách nhìn này vào xã hội phong kiến - thuộc địa thì thật đúng. Dẫu vậy, cũng lại có nghịch lý là ngay trong xã hội ấy vẫn có sự phát triển của văn chương - học thuật, và vẫn có tài năng, có thiên tài. Đó là do, theo tôi, có sự độc lập của sự phát triển tinh thần và sức cưỡng lại của các tài năng - như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao,...
Trở lại sự nhận xét của Hoài Thanh về văn chương trong xã hội phong kiến - và cố nhiên, với xã hội đương thời mà ông không thể trực diện nói đến: “Chế độ chuyên chế ở nước ta cũng không thoát được cái thông lệ ấy. Viết văn, ngâm thơ mà có thể khép vào tội “yêu thư yêu ngôn” rồi bị tù bị chém, thì văn thơ cũng đến cạn nguồn. Sự chuyên chế về chính trị ở đây còn tệ hơn vì nó kèm theo nhiều thứ chuyên chế khác nữa, trong đó tai hại nhất là phép tắc làm văn, những phép tắc hẹp hòi và phiền phức làm sao!”.
“Văn chương ta từ trước tới nay vì bó buộc quá đỗi nên luôn luôn đi bên cạnh sự giả dối, sự bịa đặt. Nhà văn chỉ lo viết thế nào cho đúng với lẽ phải của xã hội mà không cần đúng với sự thật tự nhiên. Văn chương thành ra một cách để dối mình và dối người”.
Như vậy, với Hoài Thanh, tự do trong văn chương cũng có nghĩa là cho nhà văn được thành thực với mình.
Đó là sự tổng kết của Hoài Thanh về diện mạo chung của văn chương trung đại ở Việt Nam, và phương Đông nói chung. Những trói buộc khiến mất tự do và mất sự thành thực ấy vẫn còn tồn tại trong bước chuyển sang thời kỳ hiện đại - cho đến lúc này cũng chỉ chưa đầy ba mươi năm. Để phá vỡ và tháo gỡ các xiềng xích ấy cho người viết được tự do và cho văn chương bớt khô xác - đó chính là mục tiêu của yêu cầu hiện đại hóa, mà thành tựu khởi đầu và nhanh chóng vươn lên đỉnh cao sẽ được ghi nhận trong phong trào Thơ mới. Một phong trào chỉ giới hạn trong mười năm, và Hoài Thanh (cùng Hoài Chân) đã là người đầu tiên và duy nhất tổng kết nó, và tôn vinh công lao của nó trong Thi nhân Việt Nam - tác phẩm kết thúc chặng đầu trên hành trình nghề nghiệp của tác giá.
Về Thi nhân Việt Nam, cuốn sách đã được Hoài Thanh và Hoài Chân biên soạn trong mười năm(1932-1941), vào năm 1992, nhân năm mươi năm ra đời, và nhân mười năm ngày mất của Hoài Thanh, Viện Văn học phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy ban trung ương Liên hiệp văn học - nghệ thuật Việt Nam, báo Văn nghệ, Nhà xuất bản Văn học, Khoa Văn Đại học Sư phạm và Khoa Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội đã tổ chức một Hội thảo khoa học vào ngày 27/3/1992 tại địa chỉ 20 Lý Thái Tổ - Hà Nội. Số lớn các tham luận đều tập trung khẳng định giá trị tổng kết của Thi nhân Việt Nam gắn với sự phát triển của một phong trào thơ được hai tác giả khẳng định như “Một thời đại trong thi ca”.
Các tham luận trong Hội thảo này về sau được chọn tuyển và đưa in trong cuốn sách có tên Hoài Thanh và “Thi nhân Việt Nam” - 1932-1941, Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành năm 1995.
Ở kết thúc này tôi muốn nói thêm đôi điều về đóng góp của Hoài Thanh trong bài Tổng luận: Một thời đại trong thi ca đặt ở đầu Hợp tuyển. Đó là một tổng kết vừa mới mẻ vừa súc tích về sự ra đời của một phong trào thơ phù hợp với tiến trình phát triển của thơ ca dân tộc trong một cuộc chuyển giao, một bước ngoặt lớn, từ trung đại sang hiện đại. Một tiến trình nằm trong bối cảnh các mối giao lưu với phương Tây và trên cơ sở sự trỗi dậy nhu cầu giải phóng cá nhân cùng với sự hình thành của cái “tôi” trong bối cảnh xã hội thuộc địa. Khát vọng được thành thực và nhu cầu tự do cho cảm xúc và sáng tạo của con người lần đầu được thực hiện trong cả một phong trào thơ với sự hiện diện của một thế hệ các nhà thơ trong thời gian dồn gấp chỉ trên dưới mười năm. Gọi là một thời đại, bởi nó là một cuộc cách mạng, làm thay đổi triệt để diện mạo và khuôn hình cũ. “Tôi quyết rằng trong lịch sử thơ ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên..., và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu.
Từ người này sang người khác sự cách biệt rõ ràng. Cả tính con người bị kiểm chế trong bao nhiêu lâu bỗng được giải phóng. Sự giải phóng có thể tác hại ở chỗ khác. Ở đây nó chỉ làm giàu cho thì ca”.
Những khác nhau giữa các nhà thơ đưa tới sự xuất hiện các giọng điệu riêng, phong cách riêng, đó chính là căn cứ quan trọng làm nên diện mạo hiện đại của văn thơ. Là hệ quả của sự tự do và thành thực trong sáng tạo, hai yêu cầu mà Hoài Thanh từng xem là quan trọng nhất, hơn tám năm về trước, trong sách Văn chương và hành động. Quyết đoán của Hoài Thanh về sự phong phú hơn hẳn của Thơ mới so với thơ cũ hắn phải dành một ngoại lệ đặc biệt cho Nguyễn Du, nếu không sẽ là... liều. Nhưng Nguyễn Du là sản phẩm đơn độc của cả một thế kỷ, thậm chí của nhiều thế kỷ. Còn Thơ mới - là cả một phong trào với bốn - năm mươi tên tuổi chỉ trên dưới mười năm. Và chăng, như Hoài Thanh đã rào đón: “Đừng lấy một người sánh với một người. Hãy sánh thời đại cùng thời đại”.
Sau năm năm tính từ Văn chương và hành động, Hoài Thanh lại trở lại sự xác nhận giá trị của cái Chung, cái Nhân loại, cái Vĩnh cửu xuyên qua mọi nền thơ từ xưa đến nay - “từ Homère đến Kinh thi, đến ca dao Việt Nam”, cái làm nên “một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại”... “ra đời giữa vui buồn của loài người”, và “sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế”,...
Một cái Chung, dẫu với sự khác nhau của hoàn cảnh. “Bởi tình hay cảnh đều hòa theo nhịp sống của thi nhân. Nhưng cứ đi sâu vào hồn một người ta sẽ gặp hồn nòi giống. Và đi sâu vào hồn một nòi giống ta sẽ gặp hồn chung của loài người. Còn gì riêng cho Nguyễn Du, cho người Việt Nam hơn Truyện Kiều? Nhưng Truyện Kiều cũng mãi mãi là chuyện tâm sự của con người không chia màu da, không chia thời đại”.
Khẳng định vai trò của cái “tôi”, thấy trong nhu cầu giải-phóng cái “tôi” những nguyên cớ cho sự phát triển của cả một phong trào thơ, Hoài Thanh cũng đồng thời thấy mặt trái của nó, thấy những giới hạn chật hẹp của nó trong bối cảnh xã hội thuộc địa, khiến cho mọi tìm kiếm để giải phóng và giải thoát cho nó không đưa tới một bến bờ nào xa hơn một nỗi cô đơn và buồn sầu da diết: “Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu du trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.
Cùng với cái cô đơn, cái buồn - sầu, ông còn thấy chỗ yếu chỗ thiếu của nó là “một lòng tin đầy đủ” - cái “lòng tin” đã một lần ông nêu trong bài Cần phải hành động.
Ông cũng không tránh gọi nó là “bi kịch”.
Điều an ủi là bi kịch ấy của cả một thế hệ, đã được “gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỷ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt, họ nghỉ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua”.
Nếu hiểu tình yêu tiếng nói dân tộc cũng là một biểu hiện của tình yêu nước trong hoàn cảnh mất nước, ta sẽ có thêm sự cảm thông và trân trọng những người làm thơ trong một phong trào thơ đã đưa tiếng Việt lên tầm một ngôn ngữ vừa có sức biểu đạt mọi trạng huống linh diệu và phong phú của con người, vừa vượt được cha ông mà cập được các bến bờ thời sự.
Một sự linh diệu, phong phú và hiện đại của ngôn ngữ văn chương chỉ trên dưới mười năm mà đạt được; và ta quen gọi đó là một sự phát triển theo gia tốc lịch sử.