Thơ mới
Chế Lan Viên – tiếng thơ kỳ dị và khát vọng hóa văn chương thành Tổ quốc (Phần 2 và hết)
Chế Lan Viên đã dành nhiều trang thơ để đối thoại cùng Nguyễn Du và Truyện Kiều, biến di sản ấy thành nguồn cảm hứng lớn cho thơ ca hiện đại, song hành cùng Hoài Thanh, Xuân Diệu và Tố Hữu trong việc khẳng định tầm vóc thi ca dân tộc.
Chế Lan Viên – tiếng thơ kỳ dị và khát vọng hóa văn chương thành Tổ quốc (Phần 1)
Năm 2020 đánh dấu hai sự kiện trọng đại: Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chế Lan Viên (1920 – 2020) và 200 năm ngày mất Đại thi hào Nguyễn Du (1820 – 2020). Đến nay, năm 2025, nhìn lại những mốc son ấy càng thấy rõ vị trí đặc biệt của hai thi nhân trong dòng chảy thơ ca dân tộc.
Huy Cận và thế hệ thơ Tiền chiến (Phần 2 và hết)
Huy Cận và Xuân Diệu, những tên tuổi tạo nên một giai đoạn rực rỡ của thi ca Việt. Ảnh: Internet
Thời viết xong Lửa thiêng (1940), và Kinh cầu tự (1942) là thời Huy Cận bắt đầu tham gia các phong...
Huy Cận và thế hệ thơ Tiền chiến (Phần 1)
“Tiền chiến” - để nói về thơ trước 1945, gồm hai hệ thơ cũ và mới; và cuộc giao tranh mới – cũ diễn ra suốt thập niên 1930 đến đầu 1940, đưa tới sự chiến thắng của Thơ mới. Chiến thắng này đã có được một tổng kết xứng đáng, kịp thời và giàu sức thuyết phục trong tác phẩm Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân ấn hành năm 1942. Một tuyển chọn 45 tên tuổi, với lời bình, cùng một tổng kết đặt ở đầu sách có tên: Một thời đại trong thi ca.
Phạm Huy Thông: Từ “hùng tráng” Thơ mới đến nhà khoa học xã hội xuất chúng (Phần 2 và hết)
Ngay từ tuổi 18, Phạm Huy Thông đã để lại dấu ấn mạnh mẽ trong phong trào Thơ mới với loạt tác phẩm hùng tráng, được Hoài Thanh trân trọng ngợi ca. Từ thi đàn, ông bước sang khoa học xã hội, trở thành một trí thức lớn, gắn bó trọn đời với văn hóa và học thuật Việt Nam.
Phạm Huy Thông: Từ “hùng tráng” Thơ mới đến nhà khoa học xã hội xuất chúng (Phần 1)
Phạm Huy Thông – hồn thơ “hùng tráng” của Thơ mới, trí thức đa tài, từng là Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Hà Nội, Phó Chủ nhiệm Ủy ban KHXH, để lại dấu ấn sâu đậm trong văn chương và khoa học Việt Nam thế kỷ XX.
Xuân Diệu – Nhà thơ của Thơ mới, học giả của di sản cổ điển (Phần 3 và hết)
Từ một nhà thơ cách tân với khát vọng “mới nhất trong các nhà Thơ mới”, Xuân Diệu đã dành nửa đời còn lại để trở về với di sản cổ điển dân tộc. Không chỉ là người viết thơ, ông còn là học giả mê chữ, mê nghĩa, mê từng vần điệu của Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh, thơ Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu... Với Xuân Diệu, việc khảo cứu và bình giảng không chỉ là biểu hiện của uyên bác mà còn là hành động đầy yêu thương với ngôn ngữ dân tộc – thứ ông đã sống, sáng tạo, và tiếp nối như một phần di sản tinh thần Việt Nam.
Xuân Diệu – Nhà thơ của Thơ mới, học giả của di sản cổ điển (Phần 2)
Không chỉ đắm say với thơ tình và cảm xúc nhân sinh, Xuân Diệu còn là người mê đắm ngôn ngữ – từ từng chữ, từng vần cho đến cả một hệ thống tư tưởng văn chương dân tộc. Hành trình của ông qua thế giới chữ và nghĩa – từ Truyện Kiều đến Quốc âm thi tập, từ Nguyễn Trãi đến Hồ Xuân Hương – không chỉ là cuộc khám phá học thuật mà còn là một biểu hiện sâu sắc của tình yêu với tiếng Việt, với hồn cốt văn hóa Việt Nam.
Xuân Diệu – Nhà thơ của Thơ mới, học giả của di sản cổ điển (Phần 1)
Không chỉ là "ông hoàng thơ tình", Xuân Diệu còn để lại một di sản học thuật đồ sộ với bộ sách Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (2 tập, 1981–1982). Công trình này không chỉ khẳng định tầm vóc một học giả lớn mà còn góp phần dựng nên một hình ảnh trọn vẹn về một Xuân Diệu vừa là thi sĩ, nhà nghiên cứu, dịch giả, vừa là người kết nối sâu sắc với các đỉnh cao văn chương dân tộc như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương...
Đinh Gia Trinh và di sản phê bình văn học 1941–1945 (Phần 3 và hết)
Đinh Gia Trinh đặt nhiều mối quan tâm vào sự phát triển của văn học dân tộc, vào tính cách Việt Nam của văn học dân tộc.
Đinh Gia Trinh và di sản phê bình văn học 1941–1945 (Phần 2)
Khoảng lùi lịch sử và sự phát triển của chính khoa nghiên cứu và phê bình văn học sẽ cho ta một nhìn nhận biện chứng về mối quan hệ giữa đời sống chính trị, kinh tế và văn hóa, tinh thần. Để thấy sức sống dân tộc, ý thức dân tộc và những khao khát cho sự tiến bộ của xã hội và của chính bản thân văn chương học thuật luôn luôn là nguyên cớ cơ bản tạo nên các giá trị - những giá trị dẫu có lúc bị lu mờ, bị bỏ quên hoặc bỏ qua, thậm chí bị phủ nhận rồi thời gian vẫn có cách giúp cho sáng tỏ.
Đinh Gia Trinh và di sản phê bình văn học 1941–1945 (Phần 1)
Sinh 15/12/1915, mất 26/12/1974, nhà trí thức- Luật gia Đinh Gia Trinh nhiều năm hoạt động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Vào những năm sáu mươi, thế hệ chúng tôi được biết đến ông qua một số bài nghiên cứu về văn học Pháp đăng trên Tạp chí Văn học như bài viết về Louis Aragon... Nhưng văn học xem ra đối với ông lúc này chỉ là việc làm tay trái của một luật gia.
Xuân Diệu - Mùa xuân và Tình yêu
Xuân Diệu, với xuân - có thể hiểu là mùa xuân mà không cần suy diễn - ông sinh vào mùa xuân cách đây đúng 79 năm: Tháng 2-1916.
Lưu Trọng Lư: Gương mặt thi sĩ đa diện với những khoảng lặng văn xuôi (Phần 2 và hết)
Một tài thơ chói sáng như Lưu Trọng Lư rất dễ làm lu mờ những khu vực khác. Thế nhưng, không chỉ vì số lượng, mà ngay cả chất lượng, văn xuôi của Lưu Trọng Lư cũng có để lại những giá trị đáng lưu ý.
Lưu Trọng Lư: Gương mặt thi sĩ đa diện với những khoảng lặng văn xuôi (Phần 1)
Là một trong các kiện tướng của phong trào Thơ mới, Lưu Trọng Lư còn là người viết văn xuôi - như Xuân Diệu với Phấn thông vàng; từ thơ và văn xuôi lại chuyển sang hoạt động sân khấu, trong tư cách người viết kịch bản và lãnh đạo ngành sân khấu Việt Nam sau 1945 - như Thế Lữ.
Hoài Thanh trước 1945: Con đường đi đến Thi nhân Việt Nam (Phần 3 và hết)
Một sự triển khai các quan niệm văn chương như trên không thể nói là không sai lầm, nhưng đó lại là một quan niệm rất nhất quán và được bảo lưu rất kiên trì trong sự nghiệp viết văn của Hoài Thanh trước năm 1945.
Hoài Thanh trước 1945: Con đường đi đến Thi nhân Việt Nam (Phần 2)
Không chỉ phô bày thực trạng, Hoài Thanh còn kêu gọi con người không được quay lưng mà phải biết “nghĩa vụ làm dân, làm người”... “Làm một người dân Việt Nam ở thời bây giờ, trên vai ta mang nặng những trách nhiệm, không thể từ chối được”... “Trước tình thế như vậy vòng tay đứng nhìn là một tội ác. Nhất là với những người có học, nghĩa là những người đã chịu cái ơn nuôi dạy của xã hội”.
Hoài Thanh trước 1945: Con đường đi đến Thi nhân Việt Nam (Phần 1)
Hoài Thanh - người có một sự nghiệp phê bình trước Cách mạng tháng Tám 1945. Hơn thế, cùng với Thiếu Sơn - tác giả Phê bình và Cảo luận (1933), Hoài Thanh còn là người khai mạc nền phê bình văn học Việt Nam hiện đại.
Hoài Thanh sau 1945: Vui buồn nghề nghiệp (Phần 2 và hết)
Trong những ngày cuối đời, Hoài Thanh đã được nghe 8 câu thơ của Xuân Sách viết về chân dung ông. Có thể nói ông đã nghe một cách bình tĩnh - cái bình tĩnh sở dĩ có được theo tôi là có gắn với sự chuyển đổi trong thái độ của ông đối với Thi nhân Việt Nam và trong cái nhìn tổng kết cả đời mình. Nghĩa là ông sẵn sàng chấp nhận một phần những gì được nói. Ông chỉ buồn vì một câu nói oan và ác; và còn cho biết “có không ít người nghĩ như thế về ông”: Nửa đời sau lại vị người ngồi trên.