Đinh Gia Trinh và di sản phê bình văn học 1941–1945 (Phần 2)

Khoảng lùi lịch sử và sự phát triển của chính khoa nghiên cứu và phê bình văn học sẽ cho ta một nhìn nhận biện chứng về mối quan hệ giữa đời sống chính trị, kinh tế và văn hóa, tinh thần. Để thấy sức sống dân tộc, ý thức dân tộc và những khao khát cho sự tiến bộ của xã hội và của chính bản thân văn chương học thuật luôn luôn là nguyên cớ cơ bản tạo nên các giá trị - những giá trị dẫu có lúc bị lu mờ, bị bỏ quên hoặc bỏ qua, thậm chí bị phủ nhận rồi thời gian vẫn có cách giúp cho sáng tỏ.
truyenkieu-1-1024x538-1753289907.webp
Từ Truyện Kiều đến Lạnh lùng – sự chuyển mình tư tưởng trong văn chương Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử. Ảnh: Internet

Chính trên nhận thức đó và trong khoảng lùi lịch sử đó mà ta sẽ hết ngạc nhiên trước các khám phá học thuật của Đinh Gia Trinh; để từ đó mà có những phát hiện của chúng ta hôm nay về Đinh Gia Trinh.

Nhiều vấn đề quan trọng đặt ra cho sự phát triển của văn chương - học thuật trước tình thế mới của lịch sử dân tộc, đều được nói đến trên Thanh nghị, chủ yếu qua cây bút Đinh Gia Trinh. Cố nhiên, vấn đề quan trọng nhất, cấp thiết nhất lúc này là vấn đề cách mạng hóa dân tộc, vấn đề phát triển ý thức cách mạng trong quần chúng vốn là một vùng cấm lớn thì, cũng như toàn bộ nền sách báo công khai, Đinh Gia Trinh và các đồng nghiệp của ông trên Thanh nghị, Tri tân... tuyệt không được phép chạm đến. Chạm đến là rơi vào lưỡi kéo kiểm duyệt, thậm chí là vào tù! Và như vậy để thấy chữ “quay lưng”, chữ “thoát ly” với thời cuộc, cả một thời dài ta thường dùng để phê phán toàn bộ nền sách báo công khai trước 1945 tuy là có lý do, nhưng cũng cần được thông cảm và thể tình.

Nhưng sự thật thì chính quyền thuộc địa dù có tàn bạo đến mấy cũng không thể bịt hết mọi lối thoát, mọi ngả đường. Những khe hở có thể nói đến mà không sợ bị kiểm duyệt cắt xén hoặc cấm đoán là vấn đề phát triển văn chương - học thuật theo phương hướng hiện đại - nó chính là hệ quả, dẫu muốn hoặc không, của một cuộc giao lưu mới, giao lưu với phương Tây, cho đến lúc này đã có lịch sử hơn nửa thế kỷ.

Nhìn vào sự tập hợp và chọn lựa bài vở cho cuốn Hoài vọng của lý trí ta cũng có thể thấy rõ một cách tự nhiên, sự quan tâm trên cùng một chủ đề ấy của tác giả. Bài mở đầu tập sách: Tính cách văn chương Việt Nam trước thời kỳ Âu hóa, tác giả viết trên Thanh nghị số 2 và 3 - năm 1941, và bài kết thúc: Địa vị văn hóa Âu Tây trong văn hóa Việt Nam, vào số 105 - 1945. Sự sắp xếp tự nhiên theo trật tự thời gian ở các bài, với mở đầu và kết thúc như trên, cho ta thấy mối quan tâm của Đinh Gia Trinh là đặt vào sự phát triển của văn chương học thuật theo hướng phát triển của các mối giao lưu Đông Tây, theo con đường hội nhập văn học dân tộc vào văn học khu vực và nhân loại.

Mối quan hệ giữa văn chương - học thuật với đạo đức, luân lý được Đinh Gia Trinh bình luận và triển khai trong so sánh giữa nền văn chương trung đại với nền văn học hiện đại. Đinh Gia Trinh ôn tồn phân tích và luận giải về những gì đã diễn ra trong đời sống văn học ta, ở buổi giao thời, tuy không cưỡng được sự tất yếu của xu thế hiện đại hóa, nhưng vẫn còn vấp phải bao vật cản trong ý thức, trong quan niệm, không chỉ của một tầng lớp trí thức vốn chịu ảnh hưởng rất sâu nặng nền giáo dục và văn hóa truyền thống mà cả trong tâm thế chung của các tầng lớp bạn đọc đã có chữ hoặc còn chưa biết chữ. Ông viết: “Nghệ thuật văn chương ở đất Việt Nam thường làm việc cho đạo lý (...). Quen ở trong nền nếp tư tưởng ấy, một vài nhà phê bình hiện đại đã phẫn khích trước quyển Lạnh lùng của Nhất Linh. Thái độ ấy không làm cho ta ngạc nhiên. Ở Tây phương, trong lý thuyết về nghệ thuật, người ta đã chịu bằng lòng cho nghệ thuật đi xa quá những giới hạn kiềm chế của luân lý. Nghệ thuật không phải luân lý. Cuốn Werther của Goethe, một tác phẩm bậc nhất trong lịch sử văn chương ái tình của thế giới, không phải là một thiên tiểu thuyết hợp với luân lý. Trái lại nó là những trang kê bệnh trạng của một tâm hồn yếu đuối chết vì yêu. Nhưng ở nước ta thì khác. Không khí trong đó những nhà văn Việt Nam khi xưa vẫn thở là không khí nhiễm sự trọng nể đạo đức. Người ta quen quan niệm luân lý đi song hành với văn chương” (tr. 15).

Những ý tưởng trên diễn tả khá đúng diện mạo nền văn chương trung đại, kể từ khi có văn học viết cho đến Truyện Kiều - theo tôi là cái mốc lớn nhất; rồi từ Kiều qua những Hoa tiên, Sơ kính tân trang, và đột xuất ở Hồ Xuân Hương cho đến Tổ Tâm - có thể xem là cái mốc thứ hai. Ta nhớ lại những năm hai mươi khi Truyện Kiều bị một số nhà Nho kết án là “dâm thư”, và nhà giáo Song An không thể để cho mối tình Tố Tâm - Đạm Thủy vượt ra khỏi những khuôn khổ đạo lý đã được quy định. Nhưng đời sống vẫn tiếp tục cuộc đi của nó, để từ Tố Tâm mà có Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Lạnh lùng, Đoạn tuyệt... Mọi bàn cãi và xung đột trong nhận thức về thiên chức của văn chương nhìn chung bao giờ cũng xoay quanh đường ray của luân lý, đạo đức. Nhưng nếu hiểu ngoài mục tiêu đạo đức và các khuôn hình ý thức hệ, văn chương còn nhằm vào các mục tiêu tinh thần và tình cảm rộng rãi của con người thì ta sẽ càng hiểu sức sống lâu bền và còn là vĩnh cửu của Truyện Kiều. Mặt khác, trong sự phát triển theo chiều hướng hiện đại của đời sống xã hội và sinh hoạt tinh thần, rồi ra con người phải đi tới sự phân công ngày càng rành rọt giữa giáo dục, luân lý, đạo đức với văn chương; và những hoạt động đó cùng phương hướng phát triển đó có lẽ cũng là một trong các nguyên cớ tiềm ẩn đưa tới cuộc tranh luận giữa hai phái nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh hồi 1936 - 1939, là cơ sở cho Hoài Thanh đặt vấn đề “văn chương là văn chương” và Thạch Lam nêu yêu cầu “nghệ sĩ là nghệ sĩ”. Có thể nói, qua Đinh Gia Trinh, vấn đề vẫn còn tiếp tục được đặt ra trong bối cảnh thời cuộc 1941 -1945 khi các cuộc tranh luận đã ngừng hẳn.

Từ một quan niệm truyền thống có lịch sử kéo dài về chức năng duy nhất và cao quý của văn chương là chở đạo, là nói chí và răn đời; và nếu văn chương “không làm việc thẳng cho luân lý, thì nó dùng để tả nỗi niềm riêng”; hoặc là “một món tiêu khiển”, là “việc làm của những buổi tửu hậu trà dư” (tr. 16)... chúng ta hiểu, đó chính là lý do cơ bản để làm nên diện mạo của toàn bộ nền văn chương trung đại. Cũng chính từ đặc trưng đó mà văn chương không có tính cách chuyên. Người làm văn gắn với vai trò của kẻ sĩ, tiến lên là làm quan, lui về là làm thầy, nên văn chương không thể được xem là một nghề. “Người ta không quen nói: “Đây một thi sĩ, đây một kịch sĩ, đây một tiểu thuyết gia. Người ta quen gọi một người bằng địa vị, phận sự của họ trong xã hội. Vì sự kết tạo văn chương không phải là mục đích chính của đời người” (tr. 17).

Đinh Gia Trinh nêu các ý tưởng trên vào năm 1941 khi xu thế hiện đại hóa văn học Việt Nam đã đi được một phần đường. Sự hình thành nghề nghiệp viết văn cho những người theo đuổi riêng nghề nghiệp văn chương mà từ bỏ những con đường khác: Con đường làm công chức - lớn nhỏ, hoặc làm quan trong bộ máy hành chính của xã hội thuộc địa cũng đã dần dần là một thực trạng. Có thể tính từ người khởi đầu là Nguyễn Văn Vĩnh. Rồi Vũ Đình Long. Rồi nhóm Tự lực văn đoàn. Rồi là cả một lớp nhà văn tự do vào giữa những năm ba mươi...

imagedaidoanketvn-images-upload-linhdh-04022022-tu-luc-2-1753290021.jpg
Tự lực văn đoàn, những người tiên phong theo đuổi nghiệp văn như một nghề – đặt nền móng cho tư tưởng nghề văn chuyên nghiệp ở Việt Nam. Ảnh: Báo Đại đoàn kết

Thế nhưng xét chung thì một sự phân công để hành nghề như trên vẫn còn có trạng thái ngập ngừng, vì nghề văn - vẫn do sức ép của các quan niệm truyền thống cũ - chưa thể có một vị trí bình thường; và cố nhiên là khó đủ nuôi sống người viết. Sự kiếm sống trong xã hội thuộc địa vốn rất gay gắt, nên không ít người viết văn phải có thêm một nghề khác để sống, như Tú Mỡ, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Huy Tưởng... Ngay chính tác giả Đinh Gia Trinh, người rất mê văn chương, nhưng vẫn phải chọn con đường luật sư, vì nghĩa vụ đối với gia đình; việc làm văn cả trong 5 năm nơi tòa soạn tạp chí Thanh nghị của ông chỉ là việc làm theo hứng thú riêng.

Dẫu sao nếu đã có sự hình thành ý hướng tìm đến nghiệp văn như một nghề, thì chính với cái ý thức trau dồi nghề, cái ý thức phải dành được sự sống và phần thắng trong cạnh tranh - một sự cạnh tranh rất khó tránh trong nền sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, sẽ đặt ra cái yêu cầu tinh thông và nâng cao nghề nghiệp. Cũng chính ý thức đó sẽ tạo nên sự phong phú, mới mẻ, đa dạng trong những kiếm tìm khiến mỗi người viết có thể có được một diện mạo riêng, một giọng điệu riêng - nó chính là lẽ tồn tại, là mục tiêu phát triển của một nền văn chương hiện đại.

Ý thức về nghề văn như một lý do tồn tại trong một xã hội hiện đại có sự hiện diện và phân công của nhiều nghề, ý thức trau dồi nghề để có thể chiến thắng trong cạnh tranh, để luôn luôn được người đọc tìm đến, để sống được trong lòng người đọc... đó chính là cơ sở cho sự phát triển của chính bản thân nghề văn. Những ý tưởng này nếu đã được nêu thành hiện trạng, thành mục tiêu theo đuổi trong nền sản xuất văn chương bỗng trở nên sôi động vào những năm ba mươi rồi cũng sẽ trở lại sự sôi động ấy vào thập niên cuối thế kỷ, trong công cuộc đổi mới, khi xã hội trở lại sự chấp nhận nền kinh tế hàng hóa và đứng trước nhu cầu giao lưu và hội nhập từng phần vào thế giới văn chương hiện đại./.

GS. Phong Lê