Sau 1945, một bước chuyển nhanh của Nguyễn Xuân Sanh, và của cả nhóm Xuân Thu sớm nhận được lời khen của học giả Đặng Thai Mai: “Xuân Sanh chưa ra tập thơ nào, nhưng mấy bài đã đăng trên các báo cũng chứng tỏ một sự thay đổi lớn lao trong tâm hồn và nghệ thuật của một cây bút trong bộ ba Xuân Thu nhã tập”.
Trong tư cách một nhóm phái cuối cùng chủ trương thoát ly hoặc trốn tránh hiện thực là Xuân Thu nhã tập, thời điểm tiền cách mạng sẽ chứng kiến một bước ngoặt, một cuộc chuyển ngôi, hoặc trở dạ trong đời sống văn học công khai, với thế hệ viết sinh vào thời điểm trước sau 1920 như Huy Cận (1919), Anh Thơ (1919), Nguyễn Bính (1919), Chế Lan Viên (1920), Nguyễn Xuân Sanh (1920), Tế Hanh (1921). Không kể các thế hệ đi trước như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu... Tất cả họ đều có một hành trình giống nhau là hướng về cách mạng, tham gia vào các phong trào yêu nước, và đón chào Cách mạng tháng Tám - 1945 như một cuộc đổi đời cho mình. Một cuộc đổi đời rồi sẽ được khẳng định ở một thế hệ tiền bối - đó là “một cuộc tái sinh mầu nhiệm” (Hoài Thanh, Dân khí miền Trung); “một cuộc hối sinh vĩ đại” (Nguyễn Huy Tưởng, Ngày mùa); “một liều thuốc cải lão hoàn đồng” (Nguyễn Tuân, Ngày đầy tuổi tôi cách mạng)...
Con đường đi của thế hệ này rồi sẽ có chung một hướng, một đích đến như câu thơ của P.Eluard: “Từ chân trời của một người đến chân trời tất cả”. “Từ thung lũng đau thương đến cánh đồng vui”.
Cũng như số đông đồng nghiệp cùng thế hệ, Nguyễn Xuân Sanh sẽ tham gia kháng chiến trong tư cách người chiến sĩ văn nghệ, ở các vùng kháng chiến Liên khu Bốn, Liên khu Ba, Việt Bắc; tham gia các tổ chức của Đoàn thể (“Đoàn thể - Đó là một cái gì rất thiêng liêng” - Nam Cao). Và sáng tác. Trước hết theo tinh thần Đại chúng hóa, để có những chùm thơ văn theo tinh thần phát động như như Nhận ruộng (1954), Tiếng hát quê ta (1958)... Để có thơ kể chuyện nhân dân kháng chiến như Làng Nghẹt trong rừng đêm, bên cạnh Kể chuyện Vũ Lăng của Anh Thơ, Người đàn bà Ninh Thuận của Tế Hanh.
Đặc biệt, ở thời điểm mở đầu thập niên 1960, cùng với Bài ca mùa xuân 61 của Tố Hữu, Nguyễn Xuân Sanh có Nghe bước xuân về, bên cạnh Riêng chung của Xuân Diệu, Ánh sáng và phù sa của Chế Lan Viên, Trời mỗi ngày lại sáng và Bài thơ cuộc đời của Huy Cận, Tiếng sóng của Tế Hanh... Mạch cảm hứng này ở Nguyễn Xuân Sanh còn kéo dài đến Quê biển (1966), Đất nước và lời ca (1978). Và tiếp tục cho đến đầu thập niên 1990, với các Tuyển tập, khi Nguyễn Xuân Sanh vào tuổi 80.
Đặc biệt, do nhiều chục năm phụ trách công tác đối ngoại ở Hội Nhà văn nên mảng thơ dịch của Nguyễn Xuân Sanh là rất vượt trội, với nhiều tuyển thơ nước ngoài - không chỉ với Pháp, với Nga mà còn là nhiều tác gia lớn ở Châu Âu như Transtromer (Thụy Điển), Petofi (Hungary), Vaptsarov (Bulgaria), Mickiewicz (Ba Lan)... cùng với thơ Indonesia, thơ Israel đương đại...
Năm 2020, khi tôi viết những dòng ghi chép này, nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh và vợ là nhà văn Nguyễn Thị Cẩm Thạch vẫn còn trong cõi đời, ở tuổi chẵn và dưới 100, trong khi Chế Lan Viên đã đi xa 31 năm, Tố Hữu 18 năm, Huy Cận 15 năm, Tô Hoài 6 năm. Tuổi thọ chẵn trăm năm cho người đời, xưa nay không chỉ hiếm, mà còn là rất hiếm. Xin được xem đây là những lời tri ân của một thế hệ trẻ đối với một bậc thầy thuộc “Thế hệ Vàng” của văn học Việt Nam hiện đại./.