Xuân Diệu – Nhà thơ của Thơ mới, học giả của di sản cổ điển (Phần 2)

Không chỉ đắm say với thơ tình và cảm xúc nhân sinh, Xuân Diệu còn là người mê đắm ngôn ngữ – từ từng chữ, từng vần cho đến cả một hệ thống tư tưởng văn chương dân tộc. Hành trình của ông qua thế giới chữ và nghĩa – từ Truyện Kiều đến Quốc âm thi tập, từ Nguyễn Trãi đến Hồ Xuân Hương – không chỉ là cuộc khám phá học thuật mà còn là một biểu hiện sâu sắc của tình yêu với tiếng Việt, với hồn cốt văn hóa Việt Nam.
1qq-1754561900.jpg
Xuân Diệu – thi sĩ say mê chữ nghĩa, luôn làm việc không ngơi nghỉ trong suốt 50 năm sáng tạo văn chương. Ảnh: Internet

Hành trình của Xuân Diệu qua thế giới chữ và nghĩa, từ và ngữ - “thế giới của các từ, của từng từ một, nó là từng viên gạch một, nó là mỗi tế bào của tác phẩm thơ” mà Xuân Diệu đã bình và giảng, đã tán và luận (chứ không chỉ riêng giảng - vốn được nhiều người xem là ưu thế nổi trội của ông trong so sánh với Hoài Thanh, Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên...), trên văn bản của những Quốc âm thi tập, Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh, thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương... quả không lúc nào người đọc hết bất ngờ. Qua Xuân Diệu ta có thêm một dịp, thật đắc ý, để cảm và hiểu cái đẹp tuyệt vời, cái phong phú đến kỳ lạ trong kho chữ của cha ông.

Điều cần nói trước: Người mới nhất trong phong trào Thơ mới, người có những câu thơ “Tây” nhất (Hơn một loài hoa đã rụng cành/ Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh; Yêu là chết ở trong lòng một ít...) từ đầu những năm 30 (thế kỷ XX), sau ngót nửa thế kỷ làm thơ, dịch thơ và bình thơ lại là người chí thú nhất trong việc đi tìm những chữ thuần Nôm, thuần Việt nhất; một chí thú ít ai, và có lẽ chỉ Nguyễn Tuân mới sánh được.

Một chữ thốt trong Hoa cười ngọc thốt đoan trang. Cười và thốt, chứ không phải cười và nói. Thốt cũng có nghĩa là nói, nhưng nếu để hoa cười ngọc nói thì chữ nói bị ảnh hưởng của chữ cười mà hóa ra cười nói, cười cười nói nói, hóa ra nói nhiều; còn thốt là thỉnh thoảng mới nói, đáng nói mới nói, nghĩ rồi mới thốt ra, có thế thì mới “đoan trang”.

Thì đó là giảng - giảng cặn kẽ, kỹ lưỡng, với rất nhiều cân nhắc, đối sánh để đến với cái nghĩa thích hợp nhất, hay nhất cho câu.

Là dõi (chứ không phải dội) trong Đàn cầm suối, trong tai dõi. Là bợ (chứ không phải bẽ) trong Ngày vắng xem hoa bợ cây (Nguyễn Trãi). Là rủ ri (chứ không phải rầu rĩ) trong Bẽ bai rủ rỉ tiếng tơ. Là ra đây (chứ không phải sang đây) trong Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng. Là kẻ (chứ không phải đứa) trong Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé (Nguyễn Du). Là Dê cỏn... trong Dê cơn buồn sừng húc dậu thưa (Hồ Xuân Hương).

Nói dê cỏn thì hẳn không có cái để đối sánh hoặc thay thế. Vấn đề là giảng (hoặc bình, tán) sao cho nổi cái hay, cái đích đáng của chữ: “Không phải dễ nhớ, dê bé, dê con mà phải đích thị là dê cỏn. Những chữ chết tức người ta! Những chữ thần tình, gắn liền với tinh thần Việt Nam đến nỗi không tài nào dịch được”. Ở đây ta đang trở lại sự mê say của Xuân Diệu với các từ thuần Việt; và trong sự bình và tán này, ta lại nhớ đến Nguyễn Tuân, cũng là người rất chí thú đi tìm những chữ thuần Việt; người đã từng nói đến cái khó của sự chuyển dịch sang một ngôn ngữ khác hai chữ nõn và nường trong “băm sáu cái nõn nường Xuân Hương”.

Một câu thơ khác của Tú Xương: Nhạt nhèo quang cảnh bóng trăng suông, theo Xuân Diệu:“Không phải là nhạt nhẽo mà là nhạt nhèo, nghĩa là mức độ nhạt hơn; ôi! làm thơ là cân nhắc từ phần nghìn gam của chữ, sao có người lại in ra là “nhạt phèo quang cảnh”, nhạt phèo thì phèo một cái là hết chứ gì! Nhạt nhèo nó mới còn mãi như nước miếng nhạt trong miệng”.

Tán, tán chữ và tán vần. Oái oăm thay là cái vẫn “om” trong bài Trăng thu của Hồ Xuân Hương. “Om” là xiết cho chặt lại, cho thật riết. “Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm”. Để mà “phục sát đất” câu “thơ thần” Ngứa gan thằng Cuội cúi lom khom. “Câu thơ này mang biết bao nhiêu là chất nổ đối với xã hội phong kiến! Chỉ cần thằng Cuội nó ngửa gan thêm một tý nữa, nó đứng thẳng đuột lưng lên là cả cái thế tròn vo kia đổ gãy răng rắc nát vụn ra hết”.

Tán là sự kết nối các mối liên hệ, là sự mở rộng trường liên tưởng. Đó dường như là ưu thế, là chỗ mạnh của người làm thơ Xuân Diệu, và người viết tùy bút Nguyễn Tuân. Thật thú vị cách Xuân Diệu kiểm kê 7 bước tìm hiểu của Kim-Kiều, hoặc lần theo 5 chặng nhớ nhung của Kiều, như là 5 cái ga tâm lý, và ga nào cũng hợp lý, cũng được đặt đúng chỗ. Còn Nguyễn Tuân thì cho thấy không phải là 4 mà là 7 lần Kiểu đánh đàn, trong đó 2 lần Kiều đàn cho Kim Trọng nghe, nhưng lại không có lần nào đàn cho Từ Hải; không hiểu đó là một “sự sơ suất lớn” hay là “một cao kiến gì” của Nguyễn Du chăng.

Bình “tiếng gọi đò” trong Sông Lấp của Tú Xương, Xuân Diệu cho sống lại tuổi thơ của mình nơi quê ngoại Gò Bồi: “Tôi còn nhớ trong xã hội trước, khi tôi còn nhỏ, nằm ngủ trong nhà tranh của cha mẹ, trước mặt là khúc sông Gò Bồi. Khuya lạnh, co quắp trong chiếc chiếu dài, nửa nằm nửa đắp phủ kín cả đầu, trẻ con ngủ rất mê, mà lại vẫn cứ nghe tiếng rất to gọi đò văng vẳng bên ngoài, thành ra lẫn vào với giấc mộng. Sông vang tiếng, trời vang tiếng, đêm tối đen, tiếng gọi đò vời vợi làm sao!”2.

Trở về với chữ, để cho thấy cái đẹp, cái giầu, cái kỳ diệu trong ngôn ngữ dân tộc, có sẵn trong nhân dân, và đã vào được trong kho cổ điển, để tôn vinh các giá trị cổ điển. Chữ, nếu ở Nguyễn Trãi còn một ít từ cổ thì đến Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương là hết sạch, để thay vào đó là một biến hóa và sống động cho đến tận bây giờ, và như bây giờ. Đây là một đoạn Xuân Diệu bình Hồ Xuân Hương: “Lòng Xuân Hương là lửa, tay Xuân Hương có điện, nên các chữ đều sống cả lên, nó có thể bò lổm ngổm, có thể mấp máy, có thể bay, có thể duỗi, có thể khom khom, ngửa ngửa, nó có thể chũm chọe, hi ha, cốc, om, khua, vỗ; nó có thể um, xoe, xóa, loét, rì; nó có thể nối nhau thành chuỗi vần vang động: bom, chòm, om, mòm, tom hoặc ọp ẹp: heo, leo, kheo, teo, lèo; chúng ta có thể đố ai tìm được trong thơ Xuân Hương những chữ nào mà âm thanh bẹp dí, những chữ chết nào đứng trơ không cựa quậy ở trong câu. Đây không phải là kỹ thuật đâu! Đấy là tâm hồn truyền sức sống cho ngôn ngữ”.

Khẩu phục và tâm phục sự nồng nhiệt của Xuân Diệu trong tôn vinh các giá trị của người xưa; nhưng cũng không tránh được ít nhiều lo lắng - nếu như những bình, tán này là dựa trên một căn bản không vững vàng về tư liệu, về văn bản. Mà trong kho cổ điển thì Hồ Xuân Hương là khu vực chứa nhiều hiểm họa nhất - bởi sự mơ hồ trong tiểu sử, và sự khó xác định cái quyền sở hữu của bà trong cái kho thơ được truyền ngôn là của Hồ Xuân Hương. Nếu không sẽ là xây lâu đài trên bãi cát, nói như D.X. Likhachốp: “Những kết luận thu được do kết quả nghiên cứu văn bản nhiều khi đã lật nhào những lập luận thông minh nhất của các nhà nghiên cứu văn học”. Và minh chứng sau đây lại rơi vào Xuân Diệu. Đó là câu Ghé mắt trông lên thấy bảng treo, trong bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống. Trông lên chứ không phải trông ngang như ý Xuân Diệu, để có lời bình: “trông lên thì chiêm ngưỡng, trông xuống thì che chở, trường hợp này chỉ đáng trông ngang bằng nửa con mắt thôi!”. Theo nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch: Bản Nôm bài thơ này (với đích xác là trông lên) chỉ có ở văn bản Nôm Quan Vân Đường khắc in năm Khải Định Nhâm Tuất 1922. Kiều Thu Hoạch còn viết thêm: “Ngôi đền vốn nằm trên gò Đống Đa thì làm sao có thể trông ngang được”. Đó là không kể bài Để đền Sầm Nghi Đống vẫn còn trong tồn nghi: Không chắc là của Hồ Xuân Hương.

Một câu khác của Truyện Kiều: Trên yên sẵn có con dao; theo Xuân Diệu, đó phải là án, trên án - nó “là câu thơ phá niêm bằng trắc duy nhất trong Truyện Kiều. Trên án, sẵn có, hai dấu sắc ánh lên như con dao sáng loáng, như ánh mắt nàng Kiểu sáng quắc, quyết định nếu sau này nhục quá thì sẽ liều thân tự tử. Nhà bình luận Tản Đà không thấy chỗ táo bạo ấy của Nguyễn Du lại chép là: Trên yên sẵn có con dao, hóa ra bằng phẳng, vô vị! Yên thế nào được! Đã vào sóng gió rồi không thể nào yên!”. Không chỉ ở bản Tản Đà, bản được Xuân Diệu chọn đọc, mà nhiều bản khác trong sự đọc của tôi, trong đó các bản của Nguyễn Khắc Viện, Đào Duy Anh, Đặng Thanh Lê đều ghi là: Trên yên sẵn có con dao.

Khác với lên và ngang đều là Nôm, và là không thể lẫn lộn, yên (hoặc an) là Hán, và do thế hẳn không thể có sai biệt khi đọc; nghĩa là khó chuyển yên thành án được (nếu là án thì phải chuyển từ yến); vậy cần trở lại bản gốc Kiều Nôm để phân định đúng sai. Những công việc thuộc loại này, để “có một bản Kiều đúng với nguyên tác” đặt ra từ nửa đầu thế kỷ trước, cho đến nay dường như vẫn chưa thể gọi là xong, khiến cho một chuyên gia cỡ như Hoàng Xuân Hãn, cho đến cuối đời, ở tuổi 88 vẫn còn bỏ dở.

Chữ và nghĩa. Một chữ với bao là nghĩa. Vậy phải khảo cho đủ để chọn cho được một nghĩa phù hợp nhất với văn cảnh và với phong cách tác giả. Chữ mang nghĩa và chữ còn tạo nghĩa. Đã chữ, rồi lại còn “bóng chữ” - đó là câu chuyện về sau này ở nhà thơ Lê Đạt. Là người có công lớn trong việc khảo chữ, Xuân Diệu đã thực hiện với bao là chí thú, là tâm huyết cái phần việc đã được phân công cho các nhà Ngôn ngữ học, Từ vựng học.

Chữ và câu. Có biết bao là câu hay, hoặc là hay nhất trong Truyện Kiều đã được Xuân Diệu dẫn ra. Thông thường đã gọi là hay nhất thì phải là một hoặc một vài Thế nhưng đọc Kiều mà chọn một vài câu hay thì làm sao mà chọn được! Phải là hàng chục, hàng trăm. Thậm chí gần như là tất cả. “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”. Chọn hay là khó, vì quá nhiều, quá bộn, thì chọn... dở vậy. Vậy là có câu gần với “vần vè” và “khá là cọc cạch, bí ép” này: Cùng nhau lạy tạ Giác Duyên. Bộ hành một lũ theo liền một khi....

Nếu Truyện Kiều khó tìm chỉ một vài câu hay nhất thì Văn tế thập loại chúng sinh là dễ tìm hơn. Đó là câu Đêm trường dạ tối tăm trời đất chất nặng biết bao là nghĩa đời, tình người. Câu thơ gần như là sự dồn tụ tất cả bóng tối mênh mông trong bài Văn tế. Nếu được chọn hai thì đó là Đòn gánh tre chín dạn hai vai...

Đọc Xuân Diệu viết về cha ông tôi không chỉ hứng thú trong việc phát hiện ra nhiều chiều cạnh chữ nghĩa trong kho tàng văn chương dân tộc, mà đặc biệt cảm động trước cái tình của Xuân Diệu đối với ngôn ngữ và văn chương dân tộc. Hiểu nỗi mừng bất ngờ mà quá lớn của nhà thơ vào năm 1957, khi lần đầu tiên được tiếp xúc với văn bản Quốc âm thi tập, để rồi có ngay bài viết Nguyễn Trãi - nhà thơ mở đầu nền văn học cổ điển Việt Nam vào năm 1957. Và như vậy thì rất cần ghi công tất cả những ai đã từng đi sưu tầm, phát hiện, thu góp - kể từ Dương Bá Cung thời Tự Đức, rồi khảo chứng, biên dịch, biên soạn thơ văn Ức Trai; và tiếp đó là sự hoàn thiện đến độ chính xác tối ưu văn bản - nó là việc của nhiều người, nhiều đời, để cho tất cả những ai có tấm lòng như Xuân Diệu được hưởng cái hạnh phúc được học, được đọc, được bình, nghĩa là được nhân rộng ra các giá trị vốn có của người xưa, cho lớp lớp công chúng đương thời và hậu thế. Lại nghĩ đến hành trình thơ dân tộc, kể từ lúc có chữ Nôm cho đến Quốc âm thi tập, ai mà không sẵn lòng chia sẻ cái niềm vui sướng muốn reo to lên của Xuân Diệu: “Chao ôi, hú vía! Nghĩa là 254 bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi rất có thể chúng ta nay không được đọc một tí gì! Nghĩa là cả cái mảng tình cảm tinh vi nhất của Nguyễn Trãi, chưa kể cái kho văn Quốc ngữ cổ nhất do Nguyễn Trãi sáng tác, rất có thể chỉ còn lại có một cái tên sách mà thôi!”

quoc-am-thi-tap-cua-nguyen-trai-1380-1442-ban-khac-in-nam-1868-phan-anh-van-tu-ngon-ngu-va-van-hoa-the-ki-xv-1754561900.jpg
Quốc âm thi tập là nguồn tư liệu quý báu để Xuân Diệu “theo tác giả chứ không bắt tác giả theo mình”. Ảnh: Internet

Vậy là, với Quốc âm thi tập, ngoài việc soi chiếu tâm hồn, trí tuệ một danh nhân bậc nhất của lịch sử bằng những lời có cánh nhất: “Các bạn ơi; hơn năm thế kỷ rồi, thơ Nguyễn Trãi không bao giờ ngủ, Nguyễn Trãi vẫn thức trong thơ của ông (...) Thơ Nguyễn Trãi đứng rất cao, trán nhà thi sĩ chạm mây, nhưng trong ruột thơ, vẫn cháy một ngọn lửa đời rất ấm (...) Trong thơ ông, nỗi đau khổ riêng mình cũng đồng thời là nỗi khổ đau của nước nhà, vì ông là kết tinh hình ảnh của trung với hiếu, của lo nước yêu dân, khắc khoải như con cuốc suốt một đời, cho dẫu chết rồi, lòng ưu ái của ông vẫn cứ còn cháy ran trên trang thơ, trong lịch sử”, những người yêu mến lịch sử văn chương dân tộc đã có sự hiện hữu trước mắt minh cả một cái kho ngôn ngữ văn chương cổ nhất còn lưu lại được, với những 254 bài. Cái kho này đâu dễ kém giá trị so với áng thiên cổ hùng văn Đại cáo bình Ngô.

Để rồi, từ Nguyễn Trãi, sau hơn 300 năm nữa mà đến với tuyệt tác 3254 câu của Truyện Kiều (trùng khớp với số bài trong Quốc âm thi tập); và cái sống động đến kỳ diệu của thơ Hồ Xuân Hương. Với Xuân Diệu, đây là một chọn lựa có ý thức, ngay trong khởi động đầu tiên trên hành trình về với di sản của mình, để có từ 1959: Ba thi hào dân tộc.

Trở lại những khám phá của Xuân Diệu trong di sản cổ điển của cha ông, và sự chí thú say mê đi vào chữ nghĩa, vần điệu, âm giọng của cha ông, ta biết đây tuyệt không phải là một quan tâm hình thức, mà là một xuất phát quan trọng để đến với nội dung, để từ hình thức mà đến với nội dung - nó là mục tiêu cuối cùng của mọi tìm kiếm văn chương học thuật. Xuân Diệu cũng đã từng nói điều này như cách nói của một nhà lý luận văn học: “Chúng ta trước hết phải tìm tòi nội dung, tìm tòi trong quần chúng đã đành. Chúng ta còn phải tìm tòi rất nhiều về hình thức, về kỹ thuật nữa. Không có hình thức thì cũng không có nghệ thuật. Phải có một hình thức đẹp đẽ, tương xứng với nội dung mới làm công chúng yêu mến, say sưa. Rất sai lầm là người nào khinh kỹ thuật”.

Vậy là chữ và nghĩa, và vần điệu, và câu, và bài... trong cấu trúc văn chương của cha ông, đối với người tiếp nhận là Xuân Diệu, đâu phải chỉ là biểu tượng của hình thức, của kỹ thuật, của nghệ thuật. Nó còn là (hoặc chính là) hồn cốt, là thần thái, là bản sắc, là bản lĩnh của dân tộc trong trường tồn của lịch sử. Với Xuân Diệu, chữ của nhân dân - như được thể hiện trong văn học dân gian - qua tiếp nhận và sáng tạo của các đỉnh cao văn chương không bao giờ là vô hồn. Việc thổi cho được cái hồn đó vào văn chương - chữ nghĩa, đó là sứ mệnh của nhà văn, nhà thơ. “Người thi sĩ là con đẻ của ngôn ngữ dân tộc, là người phải cảm xúc sâu xa nhất cái hay, cái đẹp, cái kho tàng sâu kín của ngôn ngữ dân tộc mình, nó chứa đựng tâm hồn dân tộc mình”. Hiểu vì sao mỗi dân tộc, bên bảo tàng lịch sử cần có bảo tàng văn chương; và cũng chẳng nên so sánh lớn nhỏ giữa hai loại; bởi mỗi loại đáp ứng một nhu cầu riêng, và bởi, trên thế giới, mỗi dân tộc (hoặc quốc gia) đều có một lịch sử, nhưng không phải dân tộc nào cũng có một lịch sử văn chương để cho vào bảo tàng. Có nghĩa là nếu không có lịch sử thì cả hai đều không có; nhưng nếu có lịch sử mà không có văn chương thì, đối với bất cứ dân tộc nào cũng vậy, sẽ là thiếu đi cái phần hồn, phần da thịt, để lại cho hậu thế; nói theo Xuân Diệu, là thiếu đi cái ở “trong hệ tâm hồn”, trong “trái tim” con người; còn đối với dân tộc ta, thì có gì để minh chứng cho một lịch sử bốn nghìn năm văn hiến!

GS. Phong Lê