Đinh Gia Trinh và di sản phê bình văn học 1941–1945 (Phần 1)

Sinh 15/12/1915, mất 26/12/1974, nhà trí thức- Luật gia Đinh Gia Trinh nhiều năm hoạt động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Vào những năm sáu mươi, thế hệ chúng tôi được biết đến ông qua một số bài nghiên cứu về văn học Pháp đăng trên Tạp chí Văn học như bài viết về Louis Aragon... Nhưng văn học xem ra đối với ông lúc này chỉ là việc làm tay trái của một luật gia.
unnamed-1753289711.jpg
Đinh Gia Trinh – một trí thức đa tài, luật sư và nhà phê bình văn học từng góp mặt nổi bật trên tạp chí Thanh nghị giai đoạn 1941–1945. Ảnh: Internet

Mãi đến đầu năm 1997 này, nhân sự ra đời của cuốn sách có tên Hoài vọng của lý trí, tuyển những bài Đinh Gia Trinh viết trên tạp chí Thanh nghị từ 1941 đến 1945, mới thấy thêm một điều, thật đáng ngạc nhiên: Đinh Gia Trinh còn là, và hơn thế, quả là một cây bút phê bình và tiểu luận văn học rất đáng trân trọng. Bởi lẽ, trước hết, đặt vào thời điểm lịch sử hồi bấy giờ, Đinh Gia Trinh đã cùng các bạn đồng sự trên Thanh nghị tham gia đề xuất và giải quyết một số vấn đề về văn chương - nghệ thuật (cố nhiên là trong khuôn khổ của ngôn luận công khai, dưới sự kiểm soát của chính quyền thực dân) không hẳn là thoát ly, là quay lưng với thời cuộc; trái lại có mặt còn phù hợp với phương hướng phát triển của văn chương - nghệ thuật. Mặt khác, điều này cũng rất đáng lưu ý, ở tuổi ngót ba mươi, Đinh Gia Trinh đã tự thể hiện là một cây bút phê bình - lý luận khá kỹ lưỡng và già dặn trên nhiều vấn đề học thuật, và một khả năng cảm thụ văn chương khá tinh tế.

Vậy là Hoài vọng của lý trí - phê bình văn học và tùy bút của Đinh Gia Trinh, phải hơn nửa thế kỷ sau khi các bài đưa in trên báo và hơn hai mươi năm sau khi tác giả qua đời mới được tập hợp và in thành sách.

Tôi hiểu lý do của sự chậm trễ đó trong sự chậm trễ thường hay xảy ra cho một số người theo nghiệp văn. Những người hoặc có số phận thăng trầm, hoặc có mang một mặc cảm về thân phận hoặc nghề nghiệp nhưng vẫn đam mê với nghiệp văn; họ tạm ngừng viết hoặc vẫn tiếp tục viết rồi để đấy; họ muốn quên đi hoặc vẫn còn muốn lưu lại một dấu ấn gì của mình cho đời... Với Đinh Gia Trinh, chính ông dường như cũng muốn tự quên mình đi. Ở đây không biết có nguyên nhân nào đã hướng ông vào cách ứng xử ấy: Hoạt động bận rộn của một luật gia là nghề ông được đào tạo và theo đuổi? Sự nghiệp phê bình, nghiên cứu là quá ngắn, chỉ trong năm năm tồn tại của một tờ báo? Những bài viết trong trạng thái tùy hứng hoặc tản mạn chưa kịp in, hoặc chưa đáng in thành sách trong một thời kỳ người người đua nhau ra sách? Ấy là còn chưa kể đến những lý do riêng tư, như được nói đến, thật nhẹ nhàng mà cảm động trong bài viết cuối sách Một vài hồi ức về bố tôi của chị Đinh Phương Anh, con gái của luật sư:

“Cuộc đời của bố tôi tưởng chừng như không còn gì để nói thêm... Nhưng thật sẽ không trung thành với vong linh ông nếu không nói rằng ông đã mang theo một số tâm tư khi đi vào cõi vĩnh hằng.

Cách mạng nước ta trải qua nhiều giai đoạn lịch sử. Đã có một thời gian, con người chỉ được đánh giá chủ yếu qua thành phần xuất thân và những gì diễn ra phức tạp trong cuộc đời của mỗi con người thường được nhìn một cách khuôn mẫu, không mấy khoan dung. Với lý lịch hai năm làm quan và có vợ là gái Hàng Đào, bố tôi đã phải chịu thiệt thòi không nhỏ trên con đường phục vụ cách mạng, mặc dầu, như mọi người biết bố tôi đều nói, ông rất trong sạch và lúc nào cũng chỉ mong được làm việc nhiều hơn, cống hiến cho đất nước nhiều hơn (...).

Sinh thời bố tôi cũng có lẽ đã hiểu điều đó cho nên không bao giờ chúng tôi nghe thấy ở ông dù chỉ một lời than phiền, chứ không nói là bất mãn” (tr. 383 - 384).

Tóm lại, tất cả những lý do trên theo tôi hiểu, rất có thể là những gì khó ra khỏi sự suy nghĩ của một trí thức như Đinh Gia Trinh - người qua đời quá sớm vào năm 1974; nhưng cho dẫu ông có sống thọ hơn mười năm nữa - cho đến tuổi bảy mươi khi chưa bắt đầu công cuộc đổi mới, thì tôi nghĩ sự suy ngẫm và đánh giá vẫn chưa có gì lạc quan hơn.

Khí hậu tinh thần của đất nước vào giữa những năm tám mươi - trước công cuộc đổi mới, vẫn chưa cho ta có dịp nghĩ khác những điều ngót bốn mươi năm trước đó chúng ta vẫn thường nghĩ.

Đọc bài viết của chị Đinh Phương Anh đã nói trên, tôi hiểu việc ấn hành được tập sách này của Đinh Gia Trinh như là một sự ngẫu nhiên. Trong tủ sách gia đình của chị có đủ một bộ Thanh nghị. Lần giở từng số báo và đọc lại các bài của thân phụ, chị đã tiến hành việc chọn lọc, sắp xếp để có bước đầu cuốn sách mang tên một bài viết của Đinh Gia Trinh: Hoài vọng của lý trí, đăng trên Thanh nghị, số 56, 1944. Và thật không ngờ, với cuốn sách ngót bốn trăm trang - một gương mặt phê bình văn học được hiện lên, gương mặt Đinh Gia Trinh, trong bối cảnh sự phát triển văn học Việt Nam ở chặng đường cuối đang gấp rút đi nốt con đường hiện đại hóa trước khi bước vào Cách mạng tháng Tám - 1945.

470601024-8676930675689979-5971135103888359070-n-1753289781.jpg
Tạp chí Thanh Nghị – nơi tiếng nói của Đinh Gia Trinh và các trí thức tiền chiến vang lên trong những năm đầy biến động. Ảnh: Internet

Năm năm một tạp chí học thuật, giữa bao nhiêu báo và chí trong một thời hỗn độn, và cũng có thể nói là bế tắc của lịch sử. Từ nhiều chục năm trước đây giới nghiên cứu chúng ta, trong đó có chúng tôi dường như rất gần nhau trong nhận định: Những năm 1941 - 1945 là thời kỳ toàn bộ nền văn học công khai đi vào bế tắc.

Ở đây có lôgíc về mối quan hệ giữa chính trị - kinh tế và văn hóa - văn học - nghệ thuật, xét theo quyết định luận của hạ tầng cơ sở đối với kiến trúc thượng tầng của học thuyết Marx. Mọi hoạt động của dân tộc quả khó tránh bị dồn vào thế cùng trong xu thế bần cùng hóa rồi sẽ đưa tới hai triệu người chết; và trong chiều hướng phát xít hóa của chính quyền Pháp - Nhật nhằm tiêu diệt phong trào cách mạng.

Tình thế lịch sử đúng là như vậy. Rồi diễn biến của nó còn bi đát hơn. Nhưng cùng với thảm cảnh hai triệu người chết đói, rồi sẽ có cuộc vùng dậy quyết liệt của toàn dân, đưa tới khởi nghĩa tháng Tám - 1945. Đứng về phía đời sống văn hóa, tinh thần - nếu có nguy cơ và cả sự thật về ba căn bệnh phản dân tộc, phản khoa học, phản đại chúng rất trầm kha vào thời kỳ 1941 - 1945 thì cũng có sự thật về những dị ứng và phản ứng quyết liệt để cứu văn hóa ra khỏi ba căn bệnh ấy và đem lại cho nó một sắc diện mới, theo yêu cầu của lịch sử. Chính Nam Cao, người đã thể hiện một cách rất trung thực tình cảnh của bản thân mình, tầng lớp mình và dân tộc mình trong Chí Phèo, Sống mòn... cũng chính là người đã đưa văn học hiện thực Việt Nam vào một giai đoạn phát triển mới trong thời kỳ 1941 - 1945. Ở Nam Cao, trên tất cả những gì được viết, trọn vào nửa đầu những năm bốn mươi tuyệt không còn là sự lặp lại diện mạo văn học hiện thực những năm ba mươi với các đại diện xuất sắc như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng... Chính Nam Cao là người đã làm một cuộc đổi mới chủ nghĩa hiện thực trong văn học qua Chí Phèo và Sống mòn bất hủ. Còn nếu xét rộng ra diện mạo chung của đời sống văn học thời kỳ này, cả trong văn và thơ, cả văn học hiện thực và văn học lãng mạn thì cũng không khó thấy những đổi mới và đổi khác trên tất cả mọi phương diện của nội dung và nghệ thuật. Ngay Bướm trắng (1941) của Nhất Linh cũng không hẳn là một cuốn sách “vô luân”- nó cũng muốn là một khảo nghiệm vào thế giới bên trong con người trong một cuộc chiến để chống cái ác. Còn về phương diện nghệ thuật thì chính Bướm trắng lại là một sự phát triển theo hướng hiện đại - nếu không nói là có cả ít nhiều dấu ấn của chủ nghĩa hiện đại; để cùng với Sống mòn, nó làm nên một dòng tiểu thuyết tâm lý rất đặc trưng cho giai đoạn mới của sự phát triển tiểu thuyết vào 1941 - 1945. Cũng chính trong u ám bế tắc của lịch sử mà thời kỳ văn học 1941 - 1945 tiếp tục ghi nhận sự bổ sung các gương mặt mới trong văn thơ, với Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Nam Cao, Bùi Hiển, Nguyễn Đình Lạp, Hồ Dzếnh, Như Phong, Mạnh Phú Tư, Kim Lân, Đồ Phồn...; với Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân, Thâm Tâm... Một số nhà văn đã xuất hiện và nổi danh trước 1940 như Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Thạch Lam... vẫn tiếp tục viết, và có người càng viết khỏe trong lúc này.

Xét về phương diện học thuật, trong đó có lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn học, thì điều đặc biệt - đây lại chính là thời kỳ ra đời dồn dập những tác phẩm tiêu biểu, có ý nghĩa tổng kết các giai đoạn lớn - nhỏ của sự phát triển văn học dân tộc, một sự dồn tụ chưa thấy có trước đấy, vào những năm hai mươi và ba mươi. Đó là Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm, Thơ văn bình chú của Ngô Tất Tố, Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân, Văn học khái luận của Đặng Thai Mai... Những bộ sách được khẳng định như là một bước phát triển của khoa nghiên cứu - phê bình văn học trong xu thế hiện đại hóa; hơn thế, sau khoảng lùi nửa thế kỷ và dưới ánh sáng của công cuộc đổi mới, nó vẫn còn tiếp tục như một đối chiếu, một phản biện cho việc soi lại chặng đường nghiên cứu, phê bình văn học hơn nửa thế kỷ sau của chúng ta. Thế nhưng, để có một thống kê đầy đủ diện mạo phê bình - nghiên cứu văn học còn phải kể đến nhiều cuốn sách khác như của Đào Duy Anh: Khảo về “Truyện Kiều”, sau Việt Nam văn hóa sử cương; Nguyễn Sĩ Đạo: Đại Việt văn học lịch sử; Mặc Khuê: Ba mươi năm văn học Kiều Thanh Quế: Cuộc tiến hóa của văn học Việt Nam; Phan Trần Chúc: Văn chương quốc âm Việt Nam thế kỷ XVIII; Nguyễn Bách Khoa: Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Du và “Truyện Kiều”... Đó là những cuốn sách hoặc có xu hướng tổng kết, hoặc muốn có những tìm tòi mới; cố nhiên yêu cầu khoa học là một yêu cầu nghiêm khắc; mọi nôn nóng chủ quan hoặc mọi kết luận cẩu thả, khiên cưỡng rồi đều bị thời gian loại bỏ./.

GS. Phong Lê