Chế Lan Viên – tiếng thơ kỳ dị và khát vọng hóa văn chương thành Tổ quốc (Phần 2 và hết)

Chế Lan Viên đã dành nhiều trang thơ để đối thoại cùng Nguyễn Du và Truyện Kiều, biến di sản ấy thành nguồn cảm hứng lớn cho thơ ca hiện đại, song hành cùng Hoài Thanh, Xuân Diệu và Tố Hữu trong việc khẳng định tầm vóc thi ca dân tộc.
clv-1758942635.jpg
Chế Lan Viên – người mở rộng biên độ sáng tạo của thơ ca Việt Nam hiện đại. Ảnh: Internet

Thời “nhận đường” (chữ dùng của Nguyễn Đình Thi) của số lớn văn nghệ sĩ tiền chiến sau 1945 cho đến 1960, mối quan tâm đến Nguyễn Du trong sáng tác và phê bình, nghiên cứu còn thưa thớt, chưa nhiều, ngoài cuốn sách Quyền sống con người trong “Truyện Kiều” (1951) của Hoài Thanh và “Truyện Kiều” và thời đại Nguyễn Du (1956) của Trương Tửu cùng hai bộ văn học sử, một của nhóm Văn Sử Địa, và một của nhóm Lê Quý Đôn, ấn hành trước 1960.

Phải đến thời điểm trước sau 1960 đề tài Nguyễn Du và Truyện Kiều mới dần dần xuất hiện trong thơ, trước hết là thơ Chế Lan Viên, qua các tập Ánh sáng và phù sa (1960) và Hoa ngày thường, Chim báo bão (1967).

Trong Ánh sáng và phù sa, đó là bài Đọc Kiều.

Trong Hoa ngày thường - Chim báo bão, đó là bài Gửi Kiều cho em năm đánh Mỹ.

Hai bài dành trọn vẹn cho việc triển khai các ý tưởng và cảm xúc về Truyện Kiều, gắn với những chuyển động lớn của thời cuộc. Với Đọc Kiều, đó là thời điểm hướng đến năm 1960 - năm diễn ra Đại hội Đảng lần thứ III, định ra Cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội và Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965); đồng thời là chiến lược giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc gắn với sự ra đời Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam năm 1960. Với Gửi Kiều cho em năm đánh Mỹ - đó là thời cuộc chiến chống Mỹ chuyển sang giai đoạn chiến tranh cục bộ sau 1965, với khí thế tiến công trên cả hai miền đưa tới cuộc Tổng tiến công Mậu Thân 1968.

Cũng trong bối cảnh trên, Chế Lan Viên viết bài Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? Đó là một trong số ít bài đứng ở đỉnh cao nền thơ chống Mỹ năm 1965, cũng là năm Hội đồng hòa bình thế giới tôn vinh Nguyễn Du là Danh nhân văn hóa thế giới nhân 200 năm sinh của Đại thi hào.

Bài thơ dài 69 câu, triển khai nhiều ý tưởng mới và lạ nhằm khẳng định sức sống, bản lĩnh, vẻ đẹp của dân tộc - một dân tộc có truyền thống văn hóa nhiều nghìn năm. Trong bài thơ dạt dào nhiều ý tưởng mới mẻ và rất đậm âm hưởng sử thi, Chế Lan Viên chỉ dành một câu cho Nguyễn Du trong một chùm câu về các danh nhân lịch sử được nêu. Chỉ một câu nhưng có giá trị chưng cất và đúc kết rất cao giá trị Nguyễn Du; câu này rồi sẽ luôn luôn được dẫn, được nhớ, được thuộc trong nhiều thế hệ người đọc, cho đến hôm nay:

Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc

Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn

Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào Cửa Bắc

Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng

Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn - đó là cách tìm đến những giá trị tinh thần cao nhất của một dân tộc; những giá trị tinh thần được chưng cất, được kết tinh ở độ cao nhất trong tiếng nói, ngôn từ, văn chương, nghệ thuật...

Hai bài thơ dành trọn vẹn cho Truyện Kiều, và một câu chưng cất giá trị Nguyễn Du - đó là đóng góp của Chế Lan Viên trong nhìn nhận tầm vóc của Đại thi hào.

Một đóng góp - để cùng đồng hành với Hoài Thanh và Xuân Diệu.

Sau chiến tranh, Chế Lan Viên vẫn tiếp tục nguồn mạch Nguyễn Du trên những cảm hứng mới, qua Nghĩ thêm về Nguyễn, 24 câu, trong tập Ta gửi cho mình (1986). Và nhiều câu trong nhiều bài qua các tập Hái theo mùa (1977), và Hoa trên đá (1984) trước đó. Từ Truyện Kiều chuyển sang Nguyễn Du, hoặc từ Nguyễn Du trở lại Truyện Kiều luôn luôn, trong những Suy nghĩ về nghề, hoặc các Sổ tay thơ, Chế Lan Viên luôn có một say mê vận vào Nguyễn Du, hoặc rút ra từ Nguyễn Du nói riêng, và nền thơ cổ điển Việt nói chung những bài học cho hậu thế, trên các phương châm xưa và nay cùng đồng hành trước số phận chung của đất nước và con người, và trong niềm tự hào chung về một dân tộc có lịch sử nghìn năm văn hiến.

Ta nối liền ta trong bề dọc thời gian

Câu thơ thế kỷ 20 liền hơi với hồn cha ông trong “Truyện Kiều”, “Chinh phụ”

(Sổ tay thơ; Đối thoại mới; 1973)

Ôn Như Hầu, con sông chảy hút phía siêu hình

Nguyễn Du, vết thương lòng ta phí máu

Yên Đổ, tiếng anh khóc, dẫu cười không thể dấu

Và Tú Xương, cười gằn như mảnh vỡ thủy tinh

Chúng tôi thắng nơi các Anh xưa bỏ cuộc

Nhưng thiếu các Anh là điều không thể được

Chính từ nỗi đau xưa mà Ta mở cuộc hành trình.

(Các Anh xưa; Hái theo mùa; 1977)

Các triều đại bể dâu nhưng thi cao trường tồn

Anh lập công trên dòng ngôn ngữ ấy

Bạch Đằng anh là cắm cọc vào thời gian nước chảy

Cho nghìn năm sau vầng trăng tiếng Việt mãi còn.

(Nghĩ thêm về Nguyễn; Ta gửi cho mình; 1986)

Đó cũng là cách một bạn thơ cùng thời, cùng thế hệ, cùng năm sinh với Viên là Tố Hữu theo đuổi, bắt đầu từ Bài ca mùa xuân 61:

Trải qua một cuộc bể dâu

Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình

Nối chìm kiếp sống lênh đênh

Tố Như ơi! Lệ chảy quanh thân Kiều,

…đến Kính gửi cụ Nguyễn Du năm 1965:

Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời nghìn thu

Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du

Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày

Hỡi người xưa của ta nay

Khúc vui xin lại so dây cùng người.

Có điều gì trùng hợp không, ở thời điểm 2020, kỷ niệm 100 năm sinh của Chế Lan Viên và Tố Hữu - hai nhà thơ lớn thế kỷ XX, đúng vào dịp lễ giỗ 200 năm mất của Đại thi hào dân tộc - Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du?

GS. Phong Lê