Chế Lan Viên – tiếng thơ kỳ dị và khát vọng hóa văn chương thành Tổ quốc (Phần 1)

Năm 2020 đánh dấu hai sự kiện trọng đại: Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chế Lan Viên (1920 – 2020) và 200 năm ngày mất Đại thi hào Nguyễn Du (1820 – 2020). Đến nay, năm 2025, nhìn lại những mốc son ấy càng thấy rõ vị trí đặc biệt của hai thi nhân trong dòng chảy thơ ca dân tộc.
images-1758942476.jpg
Chế Lan Viên – gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ mới, để lại di sản lớn cho thơ ca Việt Nam. Ảnh: Báo Văn nghệ

Có mối quan hệ gì đáng nói giữa hai thi nhân của hai thời trung đại và hiện đại trong nền thơ Việt? Với một là đỉnh cao tuyệt vời và tuyệt đối của nền thơ Việt trung đại, và một là kiện tướng của phong trào Thơ mới, mở ra thời hiện đại cho thơ Việt. Phong trào Thơ mới, theo phát hiện và tổng kết của Hoài Thanh và Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam, đó là “Một thời đại trong thi ca”, với tuyển chọn 45 người cùng 43 lời bình; trong đó Chế Lan Viên và Nguyễn Bính được chọn 8 bài, ở vị trí số 3, sau vị trí số 2 là Huy Cận và Lưu Trọng Lư, mỗi người được chọn 11 bài, và người số 1 - hàng đầu là Xuân Diệu được chọn 15 bài. Trong tổng kết và trong lời bình, Chế Lan Viên được gợi dẫn bởi một cá tính thơ đặc sắc, trong giai đoạn cuối phong trào Thơ mới, theo Hoài Thanh, đó là sự kỳ dị - “kỳ dị như Chế Lan Viên"; sự kỳ dị như là một cách thoát ly thực tại; cùng với những cách thoát ly khác ở Thế Lữ, Huy Thông, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Xuân Diệu. Thoát ly trong một cá tính thơ là kỳ dị, và trốn lánh thực tại trong “sự điên cuồng” cùng Hàn Mặc Tử, nhưng “điên cuồng rồi cũng phải tỉnh”, vì làm sao mà thoát được thực tại!

Nói phong trào Thơ mới là để phân biệt với thơ cũ. Và thơ cũ, đó là toàn bộ nền thơ nằm trong chiều dài lịch sử ngót 1000 năm của dân tộc. Thơ mới mở ra cả một thời đại, với đặc trưng cơ bản là sự chuyển dịch từ cái Ta sang cái Tôi, do ảnh hưởng và áp lực của phương Tây đến với Việt Nam, sau cuộc xâm lược và ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân Pháp ngót 80 năm. Từ cái Ta sang cái Tôi - đó là cơ sở để có những cá tính sáng tạo và phong cách thơ đặc sắc, như cách Hoài Thanh tổng kết trong bài Mở đầu sách Thi nhân Việt Nam. Thế nhưng, Hoài Thanh đã rất cân nhắc và tỉnh táo để không “vơ đũa cả nắm” trong tổng kết, khi lưu ý: sự so sánh giữa thơ cũ (ngót 1000 năm) và Thơ mới (hơn 10 năm), đấy chỉ là so thời với thời, chứ không phải so người với người. Bởi nếu so người với người, thì thơ cũ có những “bậc kỳ tài đời sau không ai so sánh nổi”. Bậc kỳ tài đó chính là Nguyễn Du mà nhà phê bình không nói đến tên, nhưng ai đọc cũng hiểu.

Một thời đại thơ với 45 người được chọn và 43 người có lời bình, để khẳng định các giá trị mới mà nó mang lại cùng với ảnh hưởng của phương Tây, cho nền thơ dân tộc có lịch sử ngót 1000 năm, với trên bốn chục tên tuổi; thế nhưng trong sự ngầm hiểu, bạn đọc bất cứ ai cũng đều thấy Hoài Thanh đã dành một vị trí riêng, cao nhất cho Nguyễn Du khi ông viết: “Tôi không so sánh các nhà Thơ mới với Nguyễn Du để xem ai hơn ai kém. Đời xưa có thể có những bậc kỳ tài đời nay không ai sánh kịp. Đừng lấy một người sánh với một người. Hãy sánh thời đại cùng thời đại”, trong bài Mở đầu. Tiếp đó, là một đoạn trong mục Nhỏ to... đặt ở cuối sách: “Một quyển sách nói về thơ Việt mà mở ra không nhắc đến Nguyễn Du tôi thấy như một sự bội bạc. Nghĩ thế tôi muốn tìm một câu gì trong Truyện Kiều để in lên đầu sách. Sự tình cờ xui tôi nhớ lại câu:

Của tin gọi một chút này làm ghi

Đọc đi đọc lại riêng lấy làm đắc ý lắm..”

image-1758942589.jpg
Truyện Kiều của Nguyễn Du – nguồn cảm hứng lớn trong thơ ca và phê bình của Chế Lan Viên. Ảnh: Báo Hà Tĩnh

Người hưởng ứng nồng nhiệt nhất với Hoài Thanh trong ứng xử với Nguyễn Du là Lưu Trọng Lư, trong một bài viết đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy, số 29, ra ngày 15-12-1934, được dẫn lại trong bài Mở đầu: “Thơ mới dầu có sản xuất ra được một bậc thiên tài lỗi lạc tôi cũng không vì bậc thiên tài ấy mà rẻ rúng ông Nguyễn Du thân yêu của tôi, ông Nguyễn Du bất diệt, nhà thi sĩ của muôn đời”. Và trước đó, học giả Phan Khôi, tác giả bài thơ Tình già, trong một bài viết đăng trên Phụ nữ tân văn số 122, ra ngày 10-3-1932: “Lâu nay mỗi khi có hứng tôi toan giở ra ngâm vịnh thì cái hồn thơ của tôi như nó lúng túng, chẳng khác nào cái thân của tôi là lúng túng. Thơ chữ Hán ư? Thì ông Lý, ông Đỗ, ông Bạch, ông Tô choán trong đầu tôi rồi. Thơ Nôm ư? Thì cụ Tiên Điền, bà Huyện Thanh Quan đè ngang ngực tôi làm cho tôi thở không ra”.

Sau 1945, Hoài Thanh viết Quyền sống con người trong “Truyện Kiều” (1951) và tham gia viết chuyên để Nguyễn Du trong bộ Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam của Nhóm Văn Sử Địa (1956-1960) cùng nhiều bài khác về Nguyễn Du trong những dịp quan trọng; và còn được tiếng là người “mê Kiều”. Tất cả diễn biến này đều có gốc xuất phát từ Thi nhân Việt Nam. Nói Lưu Trọng Lư, nói Hoài Thanh, không thể không nói đến Xuân Diệu, người ở vị trí số 1 trong chọn lựa của Hoài Thanh, người “mới” nhất trong các nhà Thơ mới. Nhưng phải sau 1945, thậm chí sau 1954, Xuân Diệu mới xuất hiện trong tư cách người bình thơ số 1 (sau Tiếng thơ, in trong kháng chiến chống Pháp), và Nguyễn Du sẽ là nơi Xuân Diệu bộc lộ trọn vẹn khả năng thẩm thơ, bình thơ, nói cách khác khả năng thâm nhập vào thế giới nghệ thuật thơ qua Ba thi hào dân tộc (1959), và tiếp đó trong bộ sách 2 tập Các nhà thơ cổ điển Việt Nam ấn hành trước khi qua đời. Đây là một lao động rất kỹ lưỡng, rất công phu: “Riêng tôi, vài chục năm nay, đọc đi đọc lại đoạn Kim Kiều gặp nhau, Kim Trọng tương tư Kiều, kể có trăm lần, hồ như đã thuộc, thế mà mãi gần đây mới nghiên cứu lại, mới gọi là sơ bộ nhận thấy những tầng lớp trong đó, thật là tài tình...”.

Cùng với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, có thể xem Chế Lan Viên là người tiếp nối và khơi sâu vào các giá trị rất nhiều mặt ở Nguyễn Du trong tư cách một nhà thơ, với khởi động muộn hơn, nhưng với độ dài và liên tục bằng những bài, những câu có giá trị tổng kết rất sâu, rất cao trong nền thơ Việt thế kỷ XX. Có thể nói, trong tư cách một nhà thơ tiêu biểu đứng ở hàng đầu phong trào Thơ mới trước 1945, và nền thơ hiện đại Việt sau 1945, Chế Lan Viên đã có thể xứng đáng thay mặt các thế hệ người đọc Việt thế kỷ XX, nâng Nguyễn Du lên một tầm cao, rất cao nền thơ Việt, nền văn chương Việt, nền văn hóa Việt; và nói lời tri ân thắm thiết nhất đối với một Đại thi hào đã và sẽ được nhân loại hai lần tôn vinh là Danh nhân văn hóa thế giới, ở hai thời điểm 1965 - nhân 200 năm sinh, và 2015 - nhân 250 năm sinh./.

GS. Phong Lê