Một thời đại trong thi ca, với 45 thi nhân được chọn, cho 10 năm 1932 - 1942, trong một biển “thơ cũ” rồi sẽ mất chỗ đứng, sau một thiên niên kỷ tồn tại; vì những chuyển động và thay đổi của đời sống theo hướng Âu hóa, từ cái Ta đến với cái Tôi, nó vừa là khởi đầu vừa là kết thúc cho một tiến trình mang tên hiện đại hóa mà phong trào Thơ mới là một biểu tượng, một kết tinh trọn vẹn.
Trong 45 tên tuổi được chọn - nếu tính theo số lượng bài được tuyển thì Huy Cận ở vị trí thứ 2, cùng với Lưu Trọng Lư (11 bài), sau Xuân Diệu (15 bài), trên Chế Lan Viên, Nguyễn Bính (8 bài), Thế Lữ, Hàn Mặc Tử (7 bài)...
Còn về lời bình, tôi chú ý có 2 đoạn quan trọng gắn với Huy Cận, ngay trong bài Mở đầu.
“Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên..., và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”.
Vậy là, từ cái Ta chuyển sang cái Tôi mà phong cách cá nhân và cá tính sáng tạo của thi nhân phải được tìm đến và khẳng định như một yêu cầu quan trọng, nếu không nói là hàng đầu của một nền thơ hiện đại.
Ở đây Hoài Thanh đã nắm bắt được nét cốt lõi ấy nơi cái riêng của 8 tên tuổi trong số 45 thi nhân được chọn; và với Huy Cận - đó là “ảo não”, một trạng thái buồn hơn mức bình thường.
Tiếp đó, sau khi xác định chủ trương thoát ly và sự trốn lánh thực tại là xu thế phổ biến trong Thơ mới, Hoài Thanh đồng thời xác nhận sự vô hiệu của nó: “Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bể rộng ta tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.
Vậy là, với Hoài Thanh, tất cả mọi chỗ trốn đều vô hiệu, đều thất bại, chỉ còn một hiện hữu, nơi cái buồn, là cái không ai tránh được; và với cái buồn, đó là một khẳng định nét bao trùm nơi một hồn thơ, điệu thơ Huy Cận.
“Cái buồn Lửa thiêng là cái buồn tỏa ra từ đáy hồn một người cơ hồ không biết đến ngoại cảnh. Có người muốn làm thơ phải tìm những cảnh nên thơ. Huy Cận không thế. Nguồn thơ đã sẵn trong lòng, đời thi nhân không cần có nhiều chuyện. Huy Cận có lẽ đã sống một cuộc đời rất bình thường nhưng người luôn luôn lắng nghe mình sống để ghi lấy cái nhịp nhàng, lặng lẽ của thế giới bên trong (...) Người nói cùng ta nỗi buồn nơi quán chật đèo cao, nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của ta người lữ thứ dừng ngựa trên non, buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn.”
Ghi dấu ấn vào một thời đại thơ, vào một cuộc cách mạng trong thơ bằng cái buồn, cái ảo não riêng của mình ở tuổi ngoài 20, Huy Cận sớm trở thành một tên tuổi vừa có vị trí đỉnh cao, vừa có vai trò kết thúc, qua những bài như Buồn đêm mưa:
Đêm mưa làm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la...
Tai nương nương giọt mái nhà
Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn.
Vạn lý tình:
Nắng đã xế về bên xứ bạn
Chiều mưa trên bãi, nước sông đầy
Trông vời bốn phía không nguôi nhớ
Dơi động hoàng hôn thấp thoáng bay.
Tràng giang:
Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Ngậm ngùi:
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ
Hồn em đã chín mấy mùa thương đau?
Tay anh em hãy tựa đầu
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi.
Và hẳn chưa phải là cuối cùng, trong Nhạc sầu, với:
Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế.
Chiều mồ côi, đời rét mướt ngoài đường
Phố đìu hiu màu đá cũ lên sương
Sương hay chính bụi phai tàn lả tả?
…
Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế.
Kèn đám ma hay ấy tiếng đau thương
Của cuộc đời? Ai rút tự trong xương
Tiếng nức nở gởi gió đường quạnh quẽ!
Sầu chi lắm trời ơi! Chiều tận thế.
Vậy là, với Hoài Thanh - tác giả Thi nhân Việt Nam, Huy Cận là một trong số không hơn 5 người có công đầu định hình gương mặt Thơ mới, và cũng là thơ Việt nói chung, ở đỉnh cao và kết thúc của nó, trong một chiến thắng toàn diện và triệt để mọi hệ... thơ cũ, với người đại diện cuối cùng là Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939), người được Hoài Thanh đặt tên lên đầu sách trong một bài “cung chiêu anh hồn” với rất nhiều bùi ngùi, thương cảm và trân trọng, vào những năm tiếp cận Cách mạng tháng Tám. Trong mọi chỗ trốn, mọi hướng thoát ly mà Thơ mới khuyến dụ con người - một lớp thanh niên không bằng lòng với thực tại, nhưng cũng chưa tìm được lối thoát cho mình (trừ Tố Hữu), thì trốn vào nỗi buồn vẫn là một tư thế, một tâm thế có thể chấp nhận, thay vì những chỗ trốn khác như điên, như say, như phóng túng hình hài và trụy lạc... Một nỗi buồn trải khắp mặt không gian và thời gian; nhìn vào đâu, và vào bất cứ lúc nào cũng không thoát được. Và sự thực là thế, một xã hội như xã hội Việt Nam trong chế độ thuộc địa ngót 80 năm, ở thời điểm tiền cách mạng - 1945 với 2 triệu người chết đói, sao mà vui cho được!