Am hiểu lịch sử văn học dân tộc, ông xót xa nói đến những khoảng trống và những mất mát lớn trong di sản cha ông do sự xâm lăng và cướp bóc của phong kiến nhà Minh thế kỷ XV: “Ta mất những tác phẩm lớn của Trần Quốc Tuấn, của các văn gia và vua chúa đời Lý, Trần, những ký sự, luận thuyết rất nhiều, một kho tài liệu cho nhà triết học, nhà sử học, cho nhà khảo cứu về văn hóa. Một lỗ trống lớn đã làm gián đoạn lịch sử văn học của nước ta. Nhưng sự tàn hại bởi chiến tranh không làm cho ta đau đớn bằng sự mai một của phần linh hồn quốc gia ấy” (tr. 19).
Sự thật trên đã được các tiền nhân nói đến qua nhiều niên đại, nhiều thế kỷ. Đinh Gia Trinh chỉ tiếp tục sự nhắc nhở, và thời kỳ 1941 - 1945 là thời kỳ văn học dân tộc tiếp tục đứng trước các nguy cơ bị hủy hoại.
Chấp nhận sự giao lưu với phương Tây, chấp nhận xu thế hiện đại hóa như một nhu cầu, hơn thế, một tất yếu lịch sử: “Áo của tổ tiên ta để lại chật quá, ta phải thay áo mới, đó có phải đâu là vong bản, là phụ bạc!” (tr. 138), Đinh Gia Trinh cũng đồng thời nêu những phản đề cho ta quan tâm và lo nghĩ về một thực trạng đáng buồn: “Dưới ảnh hưởng của Pháp học nhiều thanh niên những bò chữ Hán và chữ Nôm khiến cho ngày nay, một kho tài liệu bằng Hán văn chưa được dịch ra quốc văn đành chịu ở trong bóng tối của một vài tủ sách gia đình, đợi thời gian để mai một đi. Giữa ta và thế hệ trước ta non một thế kỷ có một bức lũy ngăn sự thông hiểu lẫn nhau, thực là một điều đáng buồn” (tr. 19 - 20).
Những năm 1941 - 1945 có lúc đã được xem như là một thời kỳ “phục cổ” đáng phê phán. Thời của tạp chí Tri tân. Thời của trường Viễn Đông bác cổ. Thời dồn tụ các tiểu thuyết lịch sử của Ngô Tất Tố, Chu Thiên, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Huy Tường... Thời của các thành tựu nghiên cứu về văn học quá khứ như đã nêu trên... Quay về quá khứ giữa lúc tình hình đất nước sôi sục hướng tới cách mạng – hẳn khó tránh bị xem như một sự thoát ly. Nhưng nếu hiểu cuộc sống thường đặt ra nhiều vấn đề, nêu lên nhiều câu hỏi, và con người trong các bối cảnh cụ thể của lịch sử chỉ có thể thực hiện những phần việc theo quy định của lịch sử, thì, trong khoảng lùi thời gian, ta sẽ thấy việc giải quyết các nhu cầu tinh thần đặt ra cho đời sống văn chương học thuật như Đinh Gia Trinh đã nêu trên cũng là một nhu cầu thời cuộc. Chỉ mới chưa đầy nửa thế kỷ phát triển theo hướng Âu hóa, kể từ phong trào Đông du và Đông Kinh nghĩa thục, cái phần được mà nền văn chương đương đại đã giành được vào những năm ba mươi lại đi kèm với cái mất và nỗi lo như được Đinh Gia Trinh nói đến ở trên.
Rồi cũng chính với nỗi lo, đi kèm với nguy cơ này, mà suốt nửa thế kỷ sau, chính quyền dân chủ cộng hòa, dẫu trong chiến tranh, chúng ta đã phải để ra biết bao phương án giải quyết.
Đinh Gia Trinh nói đến một di sản quý báu của cha ông, ở đó xác định được bản sắc riêng của dân tộc. Di sản đó luôn luôn bị đe dọa mất mát bởi chiến tranh, bởi thời tiết khắc nghiệt và bởi cả sự vô tâm ít chăm lo giữ gìn, bảo quản của con người. Đồng thời ông cũng nói đến những hạn chế - nó làm cho văn chương, học thuật Việt Nam chậm phát triển lên một tầng cao - tương ứng với thời hiện đại, được xác định bởi các giá trị tự nó như con đường văn học phương Tây đã đi: “Sự sáng tác nghệ thuật kém phong phú, mãnh liệt, vì nó không được quan niệm là một mục đích tự túc. Nghề in còn cổ sơ, thường chỉ làm việc cho các bộ sử Tàu, các sách học cổ điển. Sự truyền bá một tác phẩm văn chương trong công chúng bằng sách in, qua các hàng sách, các nhà xuất bản có thể nói là chẳng có một chút hăng hái gì cả. Vì vậy ít có những chuyển vận lớn trong tư tưởng về nghệ thuật, những trường thơ (Écoles de poésie), những cuộc phấn đấu triệt để về thuyết lý. Lịch sử văn chương ta im ả lạ thường, như một buổi chiều êm dịu của mùa thu. Mỗi văn gia viết những tư tưởng, tình hình của mình, không để ý mấy đến nghệ thuật của người bên cạnh, mà cũng không ưa đem nghệ thuật của mình hiến làm khuôn mẫu cho mọi người, vì thực ra các nhà văn ấy cũng chẳng có ý tưởng gì quá khích về nghệ thuật. Trên đường cũ vẫn có những dấu xe cũ để rõi theo” (tr. 20).
Những nhận xét như trên của Đinh Gia Trinh, theo tôi là những nhận xét sáng suốt. Ông là người am hiểu văn học dân tộc, tự hào với các giá trị vốn có của nó và mong mỏi nó phát triển cho kịp với yêu cầu của thời hiện đại; mặt khác, ông là người am hiểu văn học phương Tây như một sản phẩm mới của thời đại, mà sớm hay muộn, văn học dân tộc cũng không thể khước từ sự giao lưu, học hỏi.
Đọc Hoài vọng của lý trí tôi thực sự hứng thú trong việc đón nhận và triển khai các ý tưởng, theo tôi, là phù hợp với yêu cầu hiện đại hóa văn học dân tộc. Một quá trình đã được khởi động vào thập niên đầu thế kỷ, nhưng phải đến những năm ba mươi mới thực sự đi vào đường ray chung với văn học thế giới hiện đại. Đinh Gia Trinh không phải là một nhà khảo cứu; ông nghiêng về việc trình bày các ý tưởng và hướng tới các khái quát lý luận. Nhưng là lý luận trong dạng của tiểu luận - thể loại thích hợp với báo chí, cho phép người viết viết theo hứng thú riêng, không cần một chỉnh thể chặt chẽ, một triển khai thật ráo riết, đến cùng.
Tiểu luận của Đinh Gia Trinh có giá trị như những thu hoạch riêng, những tổng kết riêng của chính bản thân mình, thông qua cái vốn đọc khá rộng và những trải nghiệm của bản thân là một trí thức thông minh và nhạy cảm.
Đinh Gia Trinh theo tôi phỏng đoán, không phải là người ham tranh luận. Bản tính ôn tồn, có lẽ ông ít muốn “gây chuyện” với ai. Nhưng là người có chủ kiến trên các tiêu chí học thuật được xác định rõ ràng, trong nhiều trường hợp, ông không trốn tránh việc nêu chính kiến của mình. Vào cái thời người ta sính nói đến khoa học, ông tỏ ý không tán thành lối đề cao khoa học, mà hạ thấp nghệ thuật của Phạm Ngọc Khuê (Óc khoa học của một vài người). Ông cổ vũ những tìm tòi theo hướng khoa học hóa, nhưng việc vận dụng lý thuyết và phương pháp khoa học một cách cơ giới, máy móc, đến kỳ cục và sống sượng như của Nguyễn Bách Khoa trong Nguyễn Du và “Truyện Kiều” thì ông không tán thành (Nghiên cứu về Nguyễn Du và “Truyện Kiều”). Óc trọng khoa học của Đinh Gia Trinh được hiểu mềm mại trong một tinh thần duy lý và biện chứng; và tính khoa học được Đinh Gia Trinh xem là yêu cầu quan trọng của công việc phê bình. Ông tỏ ra trân trọng, hơn nữa, còn đề cao Xuân thu nhã tập - “những người cùng chung một tín ngưỡng, cùng thờ một đạo sáng tác”, với những lời khen có lẽ là quá lời. Nhưng không phải ông không thấy những chỗ yếu của họ. Cái quy trình đi từ lãng mạn (với trước đó là tổ điển), qua tượng trưng, rồi kết thúc bằng bí hiểm từng diễn ra trong thi ca phương Tây, theo ông không hẳn là mô hình chung, là quy luật và, cầm chắc là không hợp với ta. Nhưng ông không nặng lời phê phán họ: “Có lẽ ở xứ ta một thí nghiệm như của hai ông Nguyễn Xuân Sanh và Phạm Văn Hạnh là sớm quá và không thể được nhiều độc giả tán thành” (tr. 137). “Bất vào một căn nhà lại không cho ta chia khóa mà thi sĩ cứ bảo lỗi tại ta!” (tr. 167).
Đinh Gia Trinh mong có một nền phê bình tương xứng và đi trước sáng tác văn học; và nhà phê bình cần có đủ các phẩm chất để hiểu, phân tích và cảm thụ tác phẩm. Ông viết: “Muốn làm một nhà phê bình cần có một học vấn bao quát và một thông minh để cảm hội tính tình, hiểu thấu rất nhiều tư tưởng. Không một khoa nào cần đến một học thức đại cương rộng bằng khoa học phê bình văn chương" (tr. 82). Đọc Nhà văn hiện đại, ông khen Vũ Ngọc Phan “đã làm việc với nhiều thận trọng và ông có thể, với thời gian, trở nên một nhà phê bình văn học đứng đắn. Ông đã đọc kỹ những tác phẩm của nhiều nhà văn, ông đã tìm tòi, khảo xét công phu, và người ta nhận thấy bộ Nhà văn hiện đại đã lấy mất của ông nhiều ngày giờ kê cứu siêng năng. Đối với những người viết sách khảo cứu hấp tấp và nông cạn thì tác phẩm của ông có thể coi là một lời cảnh cáo có ích” (tr. 239). Đọc Thi nhân Việt Nam 1932 - 1941 của Hoài Thanh và Hoài Chân, ông đánh giá rất cao bài tổng luận của hai tác giả, đồng thời cũng nêu những ý kiến cụ thể trong việc chọn lựa: “Nếu có một số nhà thơ bị bỏ quên thì trái lại những nhà thơ có tiếng đều có thơ trích in trong cuốn sách”. Thế nhưng mặt khác, với “sự bình tĩnh” và “không thành kiến”, ông “cũng không khỏi thấy cái nhạt nhẽo và nghèo nàn của thi hứng trong thơ của Mộng Tuyết, của Thu Hồng, của Hằng Phương. Và đến cả của Phan Văn Dật và Nguyễn Bính nữa” (tr. 133).
Có lẽ tất cả các tên tuổi thi nhân được Đinh Gia Trinh nêu trên đều ít nhiều có sự “nhạt nhẽo và nghèo nàn”, nhưng còn Nguyễn Bính? Để thấy, hoặc thơ Nguyễn Bính lúc này (những năm 41 - 42) còn chưa được mấy ai để ý, hoặc nhận xét của Đinh Gia Trinh là chủ quan, là sai. Và một nhận định tổng quan như sau: “Quyển Thi nhân Việt Nam 1932 -1941 của Hoài Thanh và Hoài Chân hầu như đã đánh dấu hết cho một thời đại thi ca” (tr. 199) là đúng cho cả hai phía: phía phong trào thơ và phía người tổng kết thơ! Tôi muốn nói: Thơ mới đến đây đã đạt đỉnh cao và chấm hết. Và công việc phê bình Thơ mới sau Hoài Thanh sẽ không còn ai hơn.
Đinh Gia Trinh còn viết khá đều một số bài tổng kết sinh hoạt văn học hàng năm và những bài bàn riêng về thơ, tiểu thuyết, kịch khảo cứu, dịch, phê bình. Các tiểu luận của Đình Gia Trinh có thể giúp ta hình dung khá cụ thể đời sống văn học nửa đầu những năm bốn mươi. Đó là những năm tiếp tục xác nhận sự phong phú các hiện tượng văn học với nhiều mặt phức tạp hơn các giai đoạn trước; đồng thời với những chuyển động và phát triển khá rõ, trong quan hệ với thời cuộc và trong kết quả của các mối giao lưu với thế giới bên ngoài.
Cuốn sách ngoài các bài tiểu luận phê bình còn gồm nhiều tùy bút, và văn bản nước ngoài được chính tác giả chọn dịch - nơi góp phần làm rõ thêm gương mặt tinh thần của một trí thức dồi dào học vấn, say mê văn chương; hơn thế, một người viết vẫn giàu năng lực biểu hiện và cảm thụ.
Năm năm trên chuyên mục văn chương của và chỉ một tờ báo, với hơn một trăm số báo, nơi đó, Đình Gia Trinh cho in trên dưới một trăm bài - hoạt động văn chương của tác giả, được chọn lọc trong Hoài vọng của lý trí chỉ là vậy. Như kinh nghiệm cho thấy, những bài viết ở dạng báo chí rất dễ bị trôi theo thời gian. Nhưng thật bất ngờ, khi tập hợp lại, lại có thể quy tụ và soi sáng những vấn đề thật cơ bản gắn với sự phát triển của văn học Việt Nam thế kỷ XX. Lại cũng là bất ngờ: sau khoảng cách hơn năm mươi năm, những ý tưởng của tác giả vẫn rất thời sự.
Cảm ơn thời gian và cảm ơn công cuộc đổi mới đã giúp cho ta nhận rõ thêm những vấn đề có ý nghĩa xuyên suốt thế kỷ; đồng thời là sự xác nhận lại hoặc mở rộng thêm các giá trị vốn có trong di sản (những giá trị có bị phủ định hoặc bị quên lãng trong một thời gian dài do vô tình hoặc do các thiên kiến) qua đóng góp của các thế hệ nối tiếp nhau, trong đó có thế hệ Đinh Gia Trinh, người chưa vào tuổi ba mươi, và mới chỉ năm năm cầm bút mà đã làm được một sự nghiệp phê bình có giá trị./.