Thời viết xong Lửa thiêng (1940), và Kinh cầu tự (1942) là thời Huy Cận bắt đầu tham gia các phong trào thanh niên yêu nước, rồi nhanh chóng có đóng góp và có vị trí cao trong Mặt trận Việt Minh và Chính phủ lâm thời - điều này khỏi cần phải nói nhiều trong Hội thảo này. Điều cần nói ở đây là tư cách nhà thơ, hơn nữa, người đứng ở hàng đầu nền thơ Việt trước 1945 - một nền thơ có thành tựu đột xuất trên cả hai phương diện: Dân tộc và hiện đại, đáp ứng kịp các yêu cầu của thời hiện đại, rồi sẽ phải trải một chuyển đổi vất vả trong một thời gian dài, từ cái buồn sang cái vui, do những cập kênh giữa tư cách người công dân và tư cách người nghệ sĩ. Không nhanh được như Xuân Diệu, cũng chậm trễ như Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Sanh, Tế Hanh, phải hơn 10 năm sau, Huy Cận mới đến được với quần chúng và niềm vui trong Trời mỗi ngày lại sáng (1958). Và đây là một niềm vui thật sự, không gượng gạo, không phô diễn, cùng lúc với nhiều bạn đường thời Thơ mới, như Xuân Diệu trong Riêng chung (1960), Chế Lan Viên trong Ánh sáng và phù sa (1960), Tế Hanh trong Tiếng sóng (1960), Nguyễn Xuân Sanh trong Nghe bước xuân về (1960)... Và nói niềm vui ở Huy Cận là nói niềm vui cho cả một chùm, chứ không riêng một quyển, gồm từ Trời mỗi ngày lại sáng (1958), qua Đất nở hoa (1960), đến Bài thơ cuộc đời (1963), cả ba - ngay từ tên gọi đã cho thấy một Huy Cận không chỉ mới mà còn là khác, rất khác với Huy Cận thời Lửa thiêng như chính nhà thơ đã tổng kết:
Mưa xưa rời rạc tần ngần
Mưa nay ríu rít nhân quần tiếng ca
Giọt mưa cũ ố vàng thơ phú
Triều mưa nay đoàn tụ lúa xanh
Cũng là thức giữa năm canh
Mưa xưa lạnh lẽo an lành mưa nay.
Từ xa lánh đời, trong chui sâu vào cái Tôi bây giờ Huy Cận áp sát vào đời. Trước hết với những người lao động nơi những tuyến đầu của họ: Anh Tài Lạc, Bác Phổ Cầu, Anh Phòng, Năm người con gái anh hùng ở Cẩm Phả, Tiếng sáo anh Điều mù…
Và cảnh - hết cái trầm mặc, u tịch, đơn côi của con người trong ngùi ngẫm với cái buồn, để đến với cái vui của kiến thiết, dựng xây - như trong Xe cát sông Hồng:
Ta xúc dồn lên chị với anh
Công trường giáo dựng ngất trời xanh
Trộn bền với cát cho ai đợi
Nhịp kẻng trong chiều vọng nắng hanh
Thuyền tiếp thuyền đi như trẩy hội
Nước sông xe cát mấy mùa rồi
Sông ơi có thỏa lòng khi thấy
Những Việt Trì lên nghiêng bóng soi!
hoặc Đoàn thuyền đánh cá:
Cá nhụ, cá chim, cùng cá dé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẩy, trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
Và suy tưởng - như một đặc trưng riêng trong thế giới thơ Huy Cận; có điều những suy tưởng bây giờ không còn trong siêu hình, mà gắn với đời thực, tập trung rõ nét trong nhiều bài thơ nổi tiếng như Các vị La Hán chùa Tây Phương, và có ở nhiều bài thơ khác:
Rồng không bay ở bốn đầu mái rạ
Nhưng cuộc đời dưới mái đã về ta
(Bài thơ cuộc đời)
Hạnh phúc xưa không cập bến này
Lạnh, trăm năm lạnh cóng bàn tay
Nắng hòa giọng ẩm em ơi hát
Khúc nhạc triều lên ta dựng xây
(Tiếng hát trên cảng)
Quả có một thời như thế trong hành trình dân tộc vào mở đầu thập niên 1960 trên miền Bắc, mà dấu ấn rõ nét là Bài ca mùa xuân 1961 của Tố Hữu, trong thơ Gió lộng (1961). Thời của sự gặp gỡ đầu tiên giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội:
Chào 61! Đỉnh cao muôn trượng
Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng
Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau
Trông Bắc, trông Nam, trông cả địa cầu!
(...)
Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau
Đảng cho ta trái tim giàu
Thẳng lưng mà bước, ngẩng đầu mà bay!
Thời, niềm vui và sắc xuân không chỉ tràn ngập trong thơ mà còn tràn lấn sang văn, với Bốn năm sau của Nguyễn Huy Tưởng, Sông Đà của Nguyễn Tuân, Mùa lạc của Nguyễn Khải, Rẻo cao của Nguyên Ngọc, Cỏ non của Hồ Phương, Trăng sáng của Nguyễn Ngọc Tấn, Lên cao của Xuân Cang...; bên cạnh các tiểu thuyết nhiều tập, hàng nghìn trang cùng lúc và lần đầu tiên ra đời như Sống mãi với thủ đô (Tập I) của Nguyễn Huy Tưởng, Sóng gầm của Nguyên Hồng, Vỡ bờ (2 Tập) của Nguyễn Đình Thi, Những người thợ mỏ của Võ Huy Tâm...
Thời tạo được một cảm hứng dâng trào cho toàn dân tộc, sau khi Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời, và Đảng Lao động Việt Nam tiến hành Đại hội lần thứ Ba - Đại hội định ra Cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội và Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất: 1961 - 1965.
Có tuổi thọ cao, ở tuổi ngoài 85, luôn được trao những trọng trách trong bộ máy chính quyền và đoàn thể, Huy Cận là người thuộc con số hiếm hoi trong đội ngũ nhà văn Việt Nam thế kỷ XX có một sự nghiệp sáng tác rất dồi dào và liên tục, ngay từ khi xuất hiện cho đến tận cuối đời, không lúc nào ngưng nghỉ.
Tôi chỉ xin giới hạn trong hai giai đoạn sáng tác thời kỳ đầu, trước và sau 1945 của Huy Cận. Hai giai đoạn cho thấy: Từ đỉnh cao Thơ mới, cũng là thơ Việt thời tiền chiến nói chung đến với hàng đầu đội ngũ các thế hệ nhà thơ sau 1945; trong một chuyển động hoặc bước ngoặt từ thâm sâu một nỗi buồn thế kỷ đến với cái vui một cuộc đổi đời của toàn dân tộc mà Huy Cận là một trong số ít các chứng nhân tiêu biểu./.