Hải Triều và cuộc đấu lý luận giữa hai dòng văn học đối lập (Phần 1)

Cuộc tranh luận giữa Hải Triều và các đại diện phái "vị nghệ thuật" đã định hình tư duy văn học cách mạng, góp phần tạo nền móng cho lý luận văn nghệ Việt Nam hiện đại.
files-library-images-site-1-20190805-web-65-nam-ngay-mat-nha-ly-luan-nha-tuyen-truyen-cach-mang-nha-van-hoa-hai-trieu-2-180304-1746114371.jpg
Chân dung Hải Triều – cây bút lý luận tiên phong của phong trào văn hóa cách mạng Việt Nam giai đoạn 1930–1945. Ảnh: Internet

Hải Triều là người giác ngộ cách mạng rất sớm, mặc dầu ông thuộc “thế gia vọng tộc”; từ 1929 đã tham gia Tân Việt, 1930 gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, rồi ngồi tù một năm rưỡi; đến 7/1932 được thả tự do, nhưng vẫn bị theo dõi, quản thúc. Trong hoàn cảnh gần như bị giam lỏng, Hải Triều đã chuyển hướng hoạt động sang lĩnh vực báo chí; lợi dụng tình thế công khai để tuyên truyền các lý thuyết cách mạng; trước hết là triết học duy vật biện chứng của chủ nghĩa Marx, qua cuộc tranh luận về Duy tâm và Duy vật với nhà báo Phan Khôi - trong hai năm 1933- 1934; để có quyển sách đầu tiên: Duy tâm hay Duy vật (1936). Tiếp đó là lý luận văn học - nghệ thuật trong cuộc tranh luận “Nghệ thuật vị nghệ thuật hay Nghệ thuật vị nhân sinh”, thoạt đầu với Thiếu Sơn, sau đó là Hoài Thanh cùng một số tên tuổi khác như Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều trong hai năm 1935-1936, rồi tiếp tục cho đến 1938. Đầu năm 1940 Hải Triều lại phải vào tù cho đến tháng 3/1945 nên mạch viết của ông bị ngắt quãng.

Có thể nói thời kỳ sôi nổi, đưa Hải Triều lên hàng đầu những cây bút gây sóng gió trên trường văn trận bút là thời 1935-1938; thời Hải Triều là chủ tướng của một phe gồm nhiều chiến hữu như Hải Vân, Hải Khách, Hổ Xanh, Lâm Mộng Quang, Bùi Công Trừng... Chỉ có điều đáng lưu ý là các bài viết rất sắc sảo, quyết liệt trong thắng thua của Hải Triều lúc này, phải chờ đến năm 1965, sau khi ông qua đời mới được Hồng Chương sưu tập đưa in, dưới cái tên: Hải Triều - Về văn học - nghệ thuật; còn lúc đương thời Hải Triều chỉ mới đưa in một cuốn sách mỏng, dăm chục trang, có tên Văn sĩ và xã hội (1937). Một tên sách rất lý luận, nhưng nội dung lại là sự giới thiệu ba văn hào nổi tiếng của thế giới, thuộc cánh tả là Romain Roland, Henri Barbusse và Maxim Gorky. Một giới thiệu rất đúng lúc, rất kịp thời - vào thời Mặt trận Dân chủ 1936-1939 nên rất trót lọt, rất ấn tượng; trong khi cuốn Văn chương và hành động của Hoài Thanh, hiền lành hơn, nhưng do có chữ hành động nên bị tịch thu.

Trở lại cuộc bút chiến giữa hai phe Nghệ thuật vị nghệ thuật và Nghệ thuật vị nhân sinh. Thực ra, có lúc Hải Triều dùng chữ dân sinh, thay cho nhân sinh, để thu hẹp lại cõi nhân gian, và để cụ thể hóa - đám cùng dân lao khổ. Trong tư cách là nhà lý luận được soi sáng bởi chủ nghĩa Marx, có thể xem Hải Triều là nhà lý luận Marxist đầu tiên ở Việt Nam, là người đã vận dụng chủ nghĩa Marx để tìm hiểu, giải thích và định hướng cho một nền văn hóa mới, một nền văn nghệ mới đang trong giai đoạn hình thành, khi công cuộc hiện đại hóa đã có được hình hài trọn vẹn của nó. Gốc là nhà lý luận, hơn nữa là nhà lý luận Marxist.

Hải Triều hẳn đã rất vui, rất sung sướng khi gặp được tập truyện Kép Tư Bén của Nguyễn Công Hoan, in năm 1935; rồi Lầm than của Lan Khai, in năm 1938, để minh chứng và khẳng định niềm ao ước của mình; ao ước một nền văn học tả thực xã hội (réalisme socialiste). Đáng tiếc là ngoài hai cuốn đó, Hải Triều còn chưa biết, hoặc biết mà ông chưa có dịp viết về Bước đường cùng và Tắt đèn, với sức chứa hiện thực và sức tố cáo còn cao hơn. Cũng rất tiếc, càng tiếc là những tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc như Bản án chế độ thực dân Pháp bằng tiếng Pháp và Nhật ký chìm tàu bằng tiếng Việt còn ở ngoài tầm đọc của ông. Không nói những bài thơ đầu tay của Tố Hữu, viết năm 1937-1938, được đăng trên báo Dân của Phan Đăng Lưu, hoặc chuyền tay trong bí mật, như Mồ côi, Hai đứa bé, Vú em, Lão đầy tớ...

Thời kỳ 1930-1945 chứng kiến nhiều cuộc tranh luận học thuật, nhưng phải nói là cuộc tranh luận giữa hai phe - Hải Triều một bên và Hoài Thanh, Thiếu Sơn một bên, là sôi nổi và để lại nhiều bài học cho hậu thế hơn cả.

hanoimoicomvn-uploads-images-tuandiep-2023-06-15-untitled-1-1746114523.jpg
Các nhà báo Trường Chinh, Trần Huy Liệu, Trần Đình Long... tại trụ sở báo Tin tức ở Hà Nội, năm 1938 (ảnh trái) và báo Le Travail số ra ngày 6/11/1936. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam

Những tranh luận học thuật, nhất là những cuộc đấu tranh tư tưởng nhằm vào mục tiêu chính trị, một cách trực tiếp, và trong bầu không khí căng thẳng của thời cuộc thường có ý vị gay gắt; và theo cách nói của Lenin, quả khó tránh những “đòn thừa”. Trên chiến tuyến phân đôi hồi 1935-1939, giữa một bên là Thiếu Sơn, Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều, Thiều Quang... và một bên là Hải Triều, Hải Khách, Hải Vân, Hồ Xanh, Lâm Mộng Quang, Bùi Công Trừng... dường như ít có điểm gặp nhau; cho đến khi kết thúc cuộc luận chiến, vào năm 1938, họ vẫn còn xa nhau. Ngay khi tưởng là có điểm gặp nhau như cùng khen Kép Tư Bền, thì cách khen và nội dung khen giữa hai phái cũng là khác nhau. Phái vị nhân sinh quả là rất quyết liệt và rạch ròi trong phân tuyến; nhưng sự thật thì phái vị nghệ thuật không phải không có những điểm khả thủ. Người đọc dễ nhận ra sự vô tâm, có phần cao ngạo và tự mãn khó đồng tình với Thiếu Sơn, khi nhà phê bình viết: “Các ông muốn cải tạo xã hội để tô điểm cho sự sống của loài người. Tôi không biết cải tạo xã hội là cái gì, nhưng sự sống của tôi, tôi không cần các ông phải tô điểm. Tự nó đã mãn nguyện rồi. Nếu trong thiên hạ còn nhiều người biết yêu mến nghệ thuật, nhờ thưởng thức những công trình của chúng tôi mà quên đi những nỗi nhỏ nhen, ti tiện của cõi đời, để sống chung với chúng tôi trong một cảnh thế giới, đẹp đẽ hơn, cao thượng hơn thì chúng tôi há lại chẳng có công với xã hội loài người đấy ư?”. Hoặc thái độ muốn đứng lên trên mọi giai cấp, để vươn đến một thứ “văn chương muôn đời”, một “nền văn chương hướng về con người viết hoa, con người của Nhân loại”, ở Lưu Trọng Lư, người “không muốn vì cái này mà bỏ cái kia, vì giai cấp này mà bỏ giai cấp nợ”. Nhưng ý kiến sau đây của Hoài Thanh về mục đích văn chương lại không phải là không có khía cạnh đúng: “Một bài văn hay là một bông hoa. Làm sao người ta lại cứ ép bông hoa phải thành quả là nghĩa gì? Một tí hương man mác lúc canh trường, những màu xanh tươi rung rinh dưới ánh trời khi ban sớm, khiến cho khách giang hồ quên những nỗi nhọc nhằn mà trong chốc lát hưởng những phút say sưa, như vậy há chẳng đủ cho một đời hoa hay sao!”. Và trong yêu cầu của Hoài Thanh: “Văn chương phải là văn chương” vốn từng bị phê phán là một thứ quan niệm nghệ thuật thuần túy, một chủ nghĩa duy mỹ, không phải không có những hạt nhân hợp lý, khiến cho chính tác giả, sau này, khi đã trải nhiều cân nhắc, vẫn thấy không nên bác bỏ, mà chỉ nên bổ sung cho rõ hơn quan niệm của mình: “Mọi thứ nghệ thuật, cái đích của nó là phục vụ nhân sinh; nhưng muốn phục vụ nhân sinh cho tốt, cũng phải có cái say sưa vì nghệ thuật”.

Mặt khác, nếu có một cách nhìn rộng ra khỏi các yêu cầu chính trị trực tiếp, để bao quát toàn diện đời sống văn hóa - tinh thần của dân tộc thì sự phát triển của văn học những năm 1930, trên tất cả các mặt của nhu cầu canh tân và hiện đại hóa, cũng cần được xem là một đòi hỏi của lịch sử. Và trong bối cảnh của nền chính trị thuộc địa, nếu sự thoát ly và quay lưng với cách mạng là đáng chê trách, phê phán; thì ở một phía khác, sự quay lưng với giai cấp thống trị, sự không hợp tác với chế độ hiện hành, cũng là điều cần lưu ý, để không đẩy họ về phía đối lập. Một thái độ phi chính trị, muốn trung lập, muốn không là “vụ lợi” trong văn chương học thuật đã đành là không có lợi cho cách mạng; nhưng cũng không hẳn là đứng về phía giai cấp thống trị, là có lợi cho kẻ thù. Nếu được hiểu như vậy, ta sẽ thấy quan niệm và cách đánh giá như sau của phái vị nhân sinh là có mặt thiếu bao dung, mà cũng không hoàn toàn đúng với sự thật:

“Xem thế, chúng ta thấy rằng: Ngoài hai thứ văn học căn bản hợp với tiến hóa, trái với tiến hóa ra, chúng ta còn thấy một thứ văn học thứ ba tự xưng là không dính gì với tiến hóa của nhân sinh, kỳ thật nó cũng chỉ là một chi phái của thứ văn học trái với tiến hóa đó thôi (...).

(...) Cái thứ văn học đó nó đã không tiến hóa gì, mà nó cũng không ăn dính gì với sự tiến hóa của nhân sinh; vì thế nên cái số mệnh nó rất ngắn ngủi, mà cái công dụng của nó cũng rất hẹp hòi, hẹp hòi đến nỗi chỉ làm tài liệu tiêu khiển cho các cô thiếu nữ ở buồng thêu, xin lỗi các ngài, thật thế”.

Và “... ai lấy nghệ thuật làm món “chơi riêng”, lấy nghệ thuật làm nghệ thuật, lấy nghệ thuật làm bùa mê người đều là vô tâm hay hữu ý đã nối giáo cho những cái lực lượng phản tiến hóa. Hạng nghệ sĩ ấy, xin lỗi ông Thiếu Sơn, là hạng nghệ sĩ gian trá, hạng nghệ sĩ quái quỷ vậy. Những tác phẩm của họ rồi sẽ theo với những cái chế độ xã hội hủ bại mà đồng bộ đào thải đi vậy”.

Thái độ khắt khe và quyết liệt như trên do sự phân đôi trận tuyến là có cơ sở giải thích trong bối cảnh và khí hậu chính trị thời kỳ Mặt trận Bình dân, thời kỳ cả một thế hệ các chiến sĩ cách mạng và văn hóa cách mạng cùng nồng nhiệt trong một bầu máu nóng, một chí hướng vươn tới lý tưởng xã hội chủ nghĩa và thế giới đại đồng. Thời kỳ của sự quán triệt ý thức giai cấp và tinh thần quốc tế vô sản như trong bài thơ của Dương Lĩnh:

Đội quân Quốc tế ngọn cờ hồng Vô sản là ta, ta tấn công Diệt lũ Frăng-cô mà cướp lấy Madrit thành ấy của ta chung.

Đổ máu mặc dầu ta đổ máu Một tay ta kéo lấy da trời. Một tay ta viết lên màn bạc, Hai chữ "hòa bình" bằng máu tươi.

Dĩ nhiên khí hậu tư tưởng trên cũng chiếm lĩnh toàn bộ tư duy lý luận một thời, trong đó có Hải Triều, với nét đặc trưng là sự quyết liệt và triệt để, trong tư thế phê phán, bất kể đó là cách hiểu hai chữ “văn học” của bậc tiền bối Phan Bội Châu: “Cụ Sào Nam giải thích chữ văn học thế là sai lắm”, hoặc là ý kiến của bất cứ ai trong phe “nghệ thuật vị…”.

Lý thuyết “vị nghệ thuật” của Théophile Gautier, chủ trương “đoạn tuyệt giữa cái đẹp và cái có ích” trong bối cảnh xã hội và nghệ thuật Pháp giữa thế kỷ XIX đem gán vào xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX là không hợp; bởi nó xuất phát từ một mỹ học của phương Tây có khác với mỹ học phương Đông; một bên nhằm tạo các vương quốc riêng trong thế giới tinh thần, một bên gắn rất chặt với đời sống xã hội.

Nghệ thuật bắt nguồn từ lao động, xét từ các khởi nguyên của nó, đúng như Hải Triều đã phân tích, trong bài Nghệ thuật với nhân sinh. Nhưng trên sự phát triển của lịch sử loài người, nghệ thuật còn đón nhận thêm nhiều nguồn mạch mới, để mở rộng phạm vi hoạt động và sức tác động, trong đó, nhu cầu giải trí cũng là một nguyên cớ cho văn chương - nghệ thuật xuất hiện, tồn tại và phát triển.

GS. Phong Lê