Khi đã là học trò, tôi được biết và học một số thầy họ Hoàng. Cái tên Hoàng Xuân Hãn lần đầu tôi được tiếp xúc là khi có trong tay từ rất sớm hai bộ sách Lý Thường Kiệt và La Sơn Phu Tử. Hai bộ sách, tôi nhớ loại cỡ to, khá dày, có nhiều chữ Hán và ảnh minh chứng. Sách là sách khảo cứu, trí óc non nớt chưa đủ hiểu; nhưng vẫn có thể đến tay tôi, để cho tôi mân mê lướt nhìn; và cái tên Hoàng Xuân Hãn cách đây ngót bốn mươi lăm năm trong tôi đã gợi một ấn tượng khó phai
Lớn lên, vào đời, không theo học chữ Hán, không chuyên vẽ cổ văn, tôi không chú tâm học hỏi, tìm hiểu về ông. Chỉ thỉnh thoảng được nghe nhắc đến ông, biết đó là một trí thức lớn, sống ở nước ngoài.
Dần dần về sau tôi mới được biết thêm về ông, một nhà bác học, tinh thông nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau, trong đó Sử, Văn và Văn hóa nước nhà là các môn cơ bản; và là một trí thức sống lâu năm ở nước ngoài, nhưng vẫn nặng lòng yêu quê, yêu nước.
Tôi nghĩ đến một đầu óc bách khoa. Ông tinh thông về Toán. Đậu tú tài Toán (năm 1928), rồi tiếp tục là cử nhân Toán (năm 1935), và thạc sĩ Toán (năm 1936), rồi dạy Toán ở trường Bưởi cho đến tháng Ba năm 1945. Tốt nghiệp kỹ sư cầu đường (năm 1934). Làm cuốn sách Danh từ khoa học (năm 1942) nhưng đã nghĩ đến công việc đó từ khi học trường Bách khoa ở Paris (năm 1930). Rồi theo học khoa học nguyên tử (1956 - 1958) và công bố những phát kiến của mình trên tờ Industries atomiques (năm 1956) - để trở thành “kỹ sư nguyên tử đầu tiên ở nước ta”. Mỗi ngành học, cả học và hành, ông đều đạt kết quả cao. Một năng lực bách khoa ở tuổi thanh niên như thế dường như là thích hợp với cách tìm đường của một thế hệ như ông - Đào Duy Anh, Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Văn Huyên... rồi tiếp đến Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Khắc Viện... Về sau, kiểu người như vậy vẫn còn, nhưng ít dần, rồi hết hẳn. Tôi nghĩ đó là con đường do yêu cầu và mang tính đặc trưng của thời cuộc mà hơn một thế hệ đã chọn đi trong thân phận của người dân mất nước, trong mong muốn gắn bó giữa lập thân và đóng góp cho đất nước.
Ở bất cứ lĩnh vực chuyên môn nào như trên, nếu có hoàn cảnh đi cho đến cùng, Hoàng Xuân Hãn đều có khả năng trở thành một người có danh, và nổi danh. Nhưng rồi ông đã chọn, theo thiên hướng riêng và hoàn cảnh riêng, con đường khảo cứu: lịch sử, văn hóa sử, văn học sử dân tộc. Con đường đó thực ra ông cũng đã chọn từ trước 1951, khi ông còn ở trong nước, vào tuổi ngoài 40, với Lý Thường Kiệt (1949), Đại Nam quốc sứ diễn ca (1949), Hà thành thất thủ ca (1950), Thi văn Việt Nam (1951)... Nhưng càng về sau, trong hoàn cảnh xa nước, và khi tuổi đã cao thì con đường trở về ngọn nguồn văn hóa dân tộc hoàn toàn và triệt để chi phối ông. Khoa văn bản học nếu dần dần đã được quan tâm ở nước ta cùng với việc mở lại Đại học Hán học thuộc Viện Văn học trong những năm chống Mỹ thì cái người thực sự để lại những tác phẩm hoàn hảo ở lĩnh vực này lại chính là ông. Thế kỷ XX đã làm xuất hiện không phải nhiều lắm tên tuổi các học giả có đủ cả hai loại tri thức về khoa học và văn chương, về Hán học và Tây học, rồi chính nhờ vào sự song hành và tinh thông của cả hai phía đó mà đối tượng nghiên cứu là cái vốn văn hóa cổ kim của dân tộc và nhân loại mới có điều kiện để trở nên thâm sâu và mới mẻ hơn. Hoàng Xuân Hãn theo tôi có lẽ là người hiếm hoi, và có thể là người cuối cùng trong số đó. Ông qua đời mang theo nốt sự hiện diện hiếm hoi ấy. Giờ đây, ai xứng đáng được gọi là người có thể nối nghiệp ông? Tôi nói điều này mà không ngại sợ bị quy kết là sùng bái cá nhân, hoặc quá bi quan!
Trong cái vốn di sản văn hóa dân tộc mà Hoàng Xuân Hãn quan tâm và theo duổi trong nửa sau hơn 45 năm cuộc đời mình, kể từ khi ông ra nước ngoài, rồi thôi theo đuổi công việc nghiên cứu về hạt nhân, phần kết quả sâu xem ra lại ở khu vực văn Nôm. Đó là hiện tượng đáng quý, rất đáng quý. Khỏi phải nói văn Nôm là nơi kết tinh rõ nhất cốt tính và tinh hoa dân tộc và văn hóa dân tộc. Đó lại cũng là chỗ “khó” nhất cho việc dựng lại trung thực diện mạo của nó trong lịch sử, vì sự “tam sao thất bản” trong truyền miệng, vì tính cách lệ thuộc vào quá nhiều yếu tố trong cấu tạo, ghi chép, nhận diện... Hoàng Xuân Hãn đã không trốn tránh đi vào chỗ khó nhất ấy. Và đi vào với tất cả sự thận trọng, vừa tìm kiếm vừa xác lập các quy luật, theo một phương pháp thật là khoa học để có thể đến được với các văn bản cổ nhất. Do vậy mà ông đạt được một hiệu quả có thể nói là chưa ai sánh bằng trên từng văn bản cổ và trong cả hệ thống chuyên ngành Hán - Nôm học. Tôi nói điều này là căn cứ vào ý kiến của một số bậc trưởng lão trong ngành Hán Nôm hiện nay ở ta. Công việc mấy năm gần đây ông đang làm, theo tôi biết, đó là văn Nôm Nguyễn Du. Cái ông đã làm xong là Văn tế thập loại chúng sinh; cái ông đang triển khai là Truyện Kiều. Ai trong chúng ta cũng đều hiểu Nguyễn Du là đỉnh cao nhất của văn học Nôm. Ông làm việc này ở tuổi ngoài tám mươi tuổi đã quá đủ, quá thừa cho việc tổng kết toàn bộ tri thức và kinh nghiệm của cả một đời người. Và văn Nôm Nguyễn Du cũng chính là công việc mà nhiều chuyên gia trong giới nghiên cứu chúng ta đã khởi công làm suốt mấy chục năm qua; còn nhìn chung và rộng ra trong nền học thuật Quốc ngữ thì nó còn lùi sâu và nhiều thập niên nửa đầu thế kỷ. Văn Nôm Nguyễn Du, chẳng riêng Truyện Kiều cũng là thứ văn sống không chỉ trong văn bản mà còn sống cái sống vinh dự nhất là trong lòng dân, trong lối cảm nghĩ của dân, trong lời ăn tiếng nói của dân. Hơn nửa thế kỷ nay, Hoàng Xuân Hãn không còn điều kiện để đi tìm văn bản Truyện Kiều trong lòng dân, và trong các thế hệ hậu sinh, như ở tuổi ba mươi ông đã từng đi trên đất Tiên Điền. Ông chỉ âm thầm một mình một bóng với sách vở, với những suy xét, đối chiếu cực kỳ tỉ mỉ trên sách vở. Thế nhưng tôi biết những thức già có tiếng là uyên bác, được kỳ vọng nhất ở nước ta hôm nay, vẫn phải tôn ông là bậc thầy.
Gắn bó với văn học Nôm, nơi đỉnh cao nhất của nó là Nguyễn Du, nơi tưởng đã hết mọi điều cần nói - đó là câu chuyện ông đã dốc cả cuộc đời, kể từ nửa cuối những năm 30. Nhưng ở tuổi gần 90 ông mới nghĩ là có dịp hoàn thiện. Xem thế mới thấy bể học quả là khôn cùng và tấm gương Hoàng Xuân Hãn thật đáng vô cùng kính nể. Cố nhiên không phải chỉ có Nguyễn Du. Sự gắn bó của ông với văn học Nôm còn được thể hiện ở nhiều khu vực khác như Bích câu kỳ ngộ, Hồ Xuân Hương... và còn ngược lên rất xa, đầu thế kỷ XIV, nơi văn phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Đấy quả là mối duyên nợ ông gắn bó suốt đời. Và có lúc nó còn là một chuyện rất cẩn trọng, rất kỳ khu. Song tinh bất dạ của Nguyễn Hữu Hào là tác phẩm ông sao được bản Nôm năm 1943; khi Đông Hồ gửi ra Bắc cho Hội Khai trí tiến đức; ông đã phiên âm rồi giữ đấy suốt hơn bốn mươi năm. Bởi lẽ phải hơn bốn mươi năm sau, vào năm 1987, ông mới có dịp chuyển đến một địa chỉ tin cậy, đó là nữ sĩ Mộng Tuyết - quả phụ của nhà thơ Đông Hồ.
Người quan tâm và theo đuổi di sản văn học dân tộc ở cả hai khu vực Hán - Nôm, nhất là Nôm; người ở tuổi ngoài tám mươi, ngót chín mươi vẫn còn tiếp tục những tìm tòi lặng lẽ trong kiên nhẫn và sáng tạo - người ấy vừa qua đời. Há không phải là một mất mát lớn hay sao?
Giờ đây khi ông đã đi vào cõi vĩnh hằng tôi mới có dịp có một hình dung nhất quán - để bổ sung cho một hình dung đa diện - về ông, người với tuổi thọ gần thế kỷ, có một hành trình xuyên suốt thế kỷ với biết bao nhiêu là xáo trộn và đổi thay, hơn bất cứ thế kỷ nào trước đây. Con người ở tuổi ngoài ba mươi, bất chấp hỗn độn và hiểm nguy đã khẩn trương “đi khắp đường phố Hà Nội để cứu vớt những sách tàn giấy cũ bằng chữ Hán bị vứt đi..” ngay sau ngày Chính phủ Trần Trọng Kim đổ' (chuyện vứt sách hoặc đốt sách là chuyện thường xảy ra, không riêng ở ta, trong những phen chuyển thay thời đại, chuyển thay chế độ!). Nhà Hán Nôm học Ngô Đức Thọ trong bài trả lời phỏng vấn nhân dịp tưởng niệm Hoàng Xuân Hãn có nói đến những bản sách ghi “Thư viện HXH” và “Thư viện Hoàng Xuân Hãn” mà ông may mắn được đọc; hẳn chắc trong đó gồm cả số sách được cứu vớt trên đường phố Hà Nội lúc này chăng?. Cũng con người ấy ở tuổi năm mươi, đã kiên tri đến miệt mài trong đống thư tịch khổng lồ và bề bộn nơi các thư viện phương Tây để tìm cho được những gì có liên quan đến văn hóa dân tộc và ngôn ngữ dân tộc, mà bị lưu lạc nơi xứ người. Cũng con người ấy, ở tuổi bảy mươi, rồi tám mươi, đến ngót chín mươi vẫn lặng lẽ, âm thầm nơi quê người trước các trang giấy cổ đã bợt bạt bởi thời gian, để dựng lại cho thật đúng, thật nguyên vẹn những chân bản văn chương cổ. Những động thái như thế trong các thời đoạn khác nhau đã làm gắn nối liền mạch hai nửa đời của nhà học giả với cùng một bầu tâm huyết, một bản lĩnh, một cốt cách - cốt cách của một kẻ sĩ chân chính của dân tộc, của một trí thức nặng lòng yêu dân tộc.
Ông đã mất ở một nơi xa, rất xa, để thay cho khái niệm “đất khách quê người”. Nơi ông đã phải chọn để sống, để tồn tại, và cả để yên nghỉ - có lẽ cũng là bất đắc dĩ, đã không được bao bọc, ấp ủ bởi cảnh và người quê hương. Tôi bỗng chợt nghĩ đến một điều có thể dễ bị xem là ngớ ngẩn: Dẫu vậy, hay chính vì vậy mà công việc con người này làm, trong cô đơn, trong âm thầm mới có hiệu quả đến thế. Có thể đó là một oái oăm, một nghịch lý của sáng tạo chăng?
Sau tất cả những đóng góp mà đến khi ông mất ta mới có dịp tổng kết lại, để thấy những đóng góp ấy là khó ai theo kịp, trong lĩnh vực văn hóa dân tộc, từng rất cần, và bây giờ càng cần một đội ngũ chuyên gia giỏi ở nhiều bộ môn cùng làm... Sau những giá trị mà trước khi chia tay với chúng ta, ông rất xứng đáng ở vị trí người thầy... Sau tất cả những xác nhận ấy, chúng ta lại thấy con người Hoàng Xuân Hãn - như ông tự thể hiện, lại là một con người rất mực khiêm nhường, và không hết những băn khoăn, trong một nỗi niềm riêng, như trong thư đề ngày tháng 12 năm 1994 gửi nhà văn Nguyễn Đức Hiền: “Chúng ta là những kẻ “một hội một thuyền” âu ưu vận nước trong sáu bảy mươi năm nay. Những người ở nhà “đã đứng mũi chịu sào”, “biết mấy phen gian khổ mới có ngày nay”, “thành quả nước nhà độc lập, thống nhất là điểm trọng”. Còn ông “cảnh ngộ tuy khác, nhưng đã cố gắng giữ tấm trung kiên để dự bị phòng khi giúp ích, và nhất là trù tính tương lai dân tộc vững chắc giữa thế giới hòa bình”. Rõ ràng ai trong đời mà chẳng mong có một đóng góp cụ thể cho quê hương, cho đất nước. Nhưng con người chỉ được sống, được hành động trong những hoàn cảnh cụ thể của lịch sử, trong những quy định của lịch sử. Hoàn cảnh lịch sử của ông là vậy: phải rời quê hương từ 1951 cho đến 1996, là năm qua đời. Ai cũng có một tư cách hành xử ở đời. Ông đã chọn tư cách riêng của người trí thức. Tư cách đó ông đã phát huy đến mức tối ưu, và đã giữ trọn cho đến tuổi tám mươi tám của đời mình. Chưa ai và cũng chẳng ai vượt hơn ông được ở tư cách một trí thức dân tộc trên các lĩnh vực chuyên môn đã được thử nghiệm những tưởng là rất xa nhau: Toán học và Văn chương, Khoa học hạt nhân và Văn Nôm cổ; sự xa nhau làm nên bề rộng, rất rộng của tri thức; nhưng dẫu sự trải rộng, hay chính nhờ vào diện rộng ấy mà hiệu quả những đóng góp của ông lại là rất lớn, khó ai theo kịp, trong những vùng sâu, rất sâu...