Văn học Việt Nam thế kỷ XX
Hoài Thanh trước 1945: Con đường đi đến Thi nhân Việt Nam (Phần 1)
Hoài Thanh - người có một sự nghiệp phê bình trước Cách mạng tháng Tám 1945. Hơn thế, cùng với Thiếu Sơn - tác giả Phê bình và Cảo luận (1933), Hoài Thanh còn là người khai mạc nền phê bình văn học Việt Nam hiện đại.
Hoài Thanh sau 1945: Vui buồn nghề nghiệp (Phần 2 và hết)
Trong những ngày cuối đời, Hoài Thanh đã được nghe 8 câu thơ của Xuân Sách viết về chân dung ông. Có thể nói ông đã nghe một cách bình tĩnh - cái bình tĩnh sở dĩ có được theo tôi là có gắn với sự chuyển đổi trong thái độ của ông đối với Thi nhân Việt Nam và trong cái nhìn tổng kết cả đời mình. Nghĩa là ông sẵn sàng chấp nhận một phần những gì được nói. Ông chỉ buồn vì một câu nói oan và ác; và còn cho biết “có không ít người nghĩ như thế về ông”: Nửa đời sau lại vị người ngồi trên.
Hoài Thanh sau 1945: Vui buồn nghề nghiệp (Phần 1)
Con đường phê bình (và lý luận) của Hoài Thanh trước năm 1945 bắt đầu từ bài Thơ mới (Tiểu thuyết thứ Bảy, số 31; ngày 29/12/1934) đến sách Thi nhân Việt Nam cùng soạn với Hoài Chân, ấn hành năm 1942. Đó là con đường đi qua một cuộc đấu tranh học thuật giữa hai phái: Phái “Nghệ thuật vị nhân sinh” và phái “Nghệ thuật vị nghệ thuật” là phái mà ông được xem là chủ tướng; và qua một cuốn sách bị cấm năm 1936 có tên Văn chương và hành động. Một con đường không yên bình, không phẳng phiu mà nhiều sóng gió. Nhưng dường như bất chấp sóng gió ông đã tới được cái đích mà ông sớm xác định và kiên trì trong thực hiện, đó là Thi nhân Việt Nam.
Hải Triều và cuộc đấu lý luận giữa hai dòng văn học đối lập (Phần 2 và hết)
Lý luận về đấu tranh giai cấp hình dung một thế giới chia đôi, và do vậy thế giới văn học cũng bị chia đôi, như Hải Triều trình bày.
Hải Triều và cuộc đấu lý luận giữa hai dòng văn học đối lập (Phần 1)
Cuộc tranh luận giữa Hải Triều và các đại diện phái "vị nghệ thuật" đã định hình tư duy văn học cách mạng, góp phần tạo nền móng cho lý luận văn nghệ Việt Nam hiện đại.
Hoàng Xuân Hãn: Trí thức bách khoa và di sản văn hóa dân tộc trong thế kỷ XX (Phần 3 và hết)
Tôi có hạnh phúc ở tuổi nghề trưởng thành mà đọc lần đầu, hoặc đọc lại những bộ sách đã thành tên quen vì luôn luôn được nhắc nhở trên suốt hành trình nghề nghiệp của mình. Và với những chỉ dẫn rất đáng tin cậy khiến mình có thể yên trí.
Hoàng Xuân Hãn: Trí thức bách khoa và di sản văn hóa dân tộc trong thế kỷ XX (Phần 2)
Nghĩ từ Hoàng Xuân Hãn tôi chỉ xin phép giới hạn trong một vài lĩnh vực mà tôi quan tâm và có chút ít hiểu biết. Thú thật mãi về sau này tôi mới biết ông từng có thời là Bộ trưởng Bộ Giáo dục trong Chính phủ Trần Trọng Kim.
Hoàng Xuân Hãn: Trí thức bách khoa và di sản văn hóa dân tộc trong thế kỷ XX (Phần 1)
Tôi viết về Hoàng Xuân Hãn như một ngẫu nhiên, không chủ định, sau một chuyến đi xa về. Họ Hoàng Xuân, một dòng họ nổi tiếng cùng một vài dòng tộc khác ở Hà Tĩnh tôi được biết từ lúc nhỏ. Tuổi thơ, mỗi lần đi Phủ Đức (Đức Thọ), qua khỏi bến Tam Soa, tôi đều được thầy tôi - một hương sư - chỉ cho biết nơi này nơi kia là quê các danh nhân được truyền tụng, trong đó có nhiều tên tuổi họ Hoàng Xuân.
Nhìn lại tư tưởng văn hóa, văn nghệ của đồng chí Trường Chinh (Phần 3 và hết)
Trường Chinh còn là một nhà thơ, làm thơ từ tuổi ba mươi với bút danh Sóng Hồng. Sinh thời, ông chỉ nhận mình là người cách mạng “thích thơ và biết làm thơ”... “Những bài thơ tôi làm cốt để phục vụ, tuyên truyền cách mạng hoặc để ghi lại một số tình cảm sâu sắc của đời mình”.
Nhìn lại tư tưởng văn hóa, văn nghệ của đồng chí Trường Chinh (Phần 2)
Tính từ Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đến bài phát biểu năm 1968 này thì lịch sử hình thành, phát triển và hoàn thiện về phương diện lý luận của nền văn nghệ mới - văn nghệ cách mạng theo đường lối xã hội chủ nghĩa ở Trường Chinh có lịch sử chẵn 25 năm.
Nhìn lại tư tưởng văn hóa, văn nghệ của đồng chí Trường Chinh (Phần 1)
Có thể nói hoạt động nhiều mặt của đồng chí Trường Chinh gắn bó khăng khít với lịch sử cách mạng Việt Nam, trong đó nổi lên yêu cầu số một là giải phóng đất nước ra khỏi ách ngoại xâm.
Đông Hồ – Người khơi dậy dòng chảy văn học miền Nam
Đông Hồ - Lâm Tấn Phúc quê ở Hà Tiên - mảnh đất tận cùng phía Nam của Tổ quốc. Suốt một đời gắn với Hà Tiên ông đã làm được rất nhiều cho mảnh đất quê hương, ngay từ khi là người sáng lập Trí Đức học xã (1926) để phổ biến chữ Quốc ngữ ở mảnh đất xa xôi này, rồi là tác giả Hà Tiên Mạc Thị sử (1929) cho đến năm cuối đời, với tác phẩm Văn học miền Nam - Văn học Hà Tiên, in năm 1970, một năm sau ngày ông qua đời.
Nguyễn Tường Tam, người sáng lập và chủ soái Tự lực văn đoàn
Tự lực văn đoàn, đại diện cho khuynh hướng lãng mạn trong văn học thời kỳ 1930 - 1945 có thể xem là hiện tượng mới và đặc sắc trong sự phát triển theo hướng hiện đại hóa của văn học Việt Nam thế kỷ XX.
Một đời văn lực lưỡng Nguyễn Công Hoan (Phần 2 và hết)
Nhà văn Chủ tịch Hội Nguyễn Công Hoan đã khẩn trương trở về với vốn sở trường của mình qua một loạt các tiểu thuyết dài dồn dập, hơn bất cứ ai, trong giao điểm những năm năm mươi và sáu mươi: Tranh tối tranh sáng (1956), Hỗn canh hỗn cư (1961), Đống rác cũ, tập I (1963) như là một sự tổng hợp và nâng cao, trong quy mô sử thi, để có thể đồng thời diễn đạt cho được cả hai mặt: mặt tối tăm bi thảm và mặt cách mạng của cuộc đời cũ.
Một đời văn lực lưỡng Nguyễn Công Hoan (Phần 1)
Đã hơn một thế kỷ, tính từ những năm hai mươi cho đến nay, Nguyễn Công Hoan vẫn được nhắc nhở trong dư luận của nhiều thế hệ bạn đọc.
Đặng Thai Mai và tầm ảnh hưởng đối với thế hệ trí thức Việt Nam (Phần 2 và hết)
Có thể hình dung Viện Văn học như một gia đình êm ấm, do có một vị gia trường nhiều quyền uy, nhưng chưa bao giờ phải đụng đến quyền.
Đặng Thai Mai và tầm ảnh hưởng đối với thế hệ trí thức Việt Nam (Phần 1)
Không chỉ thế hệ chúng tôi mà còn là nhiều thế hệ đàn anh khả kính của tôi. Bởi tiếp xúc với họ, tôi thấy khi nhắc đến ông, ai cũng trân trọng gọi ông là Thầy.
Tú Mỡ, người thầy của thơ trào phúng và biếm họa (Phần 3 và hết)
Tú Mỡ về hưu ở tuổi sáu mươi hai. Về hưu - đối với nhiều người quả là một bước ngoặt, nhưng đối với Tú Mỡ, từ tuổi sáu mươi hai đến tuổi bảy mươi sáu, năm ông qua đời, dường như dòng đời vẫn tuôn chảy một cách cần mẫn, nhịp nhàng.
Tú Mỡ, người thầy của thơ trào phúng và biếm họa (Phần 2)
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Tú Mỡ vẫn tiếp tục nghề nghiệp chủ sự tài chính của mình.