Tôi muốn gọi họ là những người thuộc thế hệ Vàng, bởi vai trò mở đầu, khai hội ở nước ta. Một thức nhận như thế đã có từ lâu, ít nhất là từ thời đổi mới; nhưng càng theo thời gian, với tôi, càng khẳng định sự đúng đắn của nó.
Khi nền giáo dục đại học được chính thức mở ra, sau năm 1954, trên miền Bắc thì thế hệ học sinh chúng tôi ở vùng tự do Khu Bốn cũ mới tốt nghiệp xong hệ phổ thông 9 năm, trong đó có hai năm Cấp Ba (1954-1956). Trong chiến tranh, vốn học ở bậc phổ thông thế hệ chúng tôi là rất mỏng. Chút ít tri thức tiếp nhận được là do lòng yêu, niềm ham đọc tất cả những gì có hoặc đến trong tay, bất kể là nguồn gì - nó là sách của những tên tuổi quen thuộc trong các trào lưu văn học trước 1945, bất kể là lãng mạn hay hiện thực; là trinh thám, kiếm hiệp, hoặc sách dịch nước ngoài, và cả sách nghiên cứu như Kinh thi Việt Nam, Nhà văn hiện đại, Thi nhân Việt Nam... Ít ỏi và lộn xộn, chúng tôi mang theo khát vọng được học, được đọc khi lần đầu tiên từ Khu Bốn ra thủ đô, rồi choáng ngợp trước các đại lộ, các phố xá, và các giảng đường... Cũng lần đầu tiên được thấy, được nghe, được tiếp xúc, được học với những tên tuổi bậc thầy mình từng ngưỡng mộ - như Cao Xuân Huy, Đặng Thai Mai, Nguyễn Mạnh Tường, Hoài Thanh, Trần Đức Thảo, Trương Tửu...
Riêng với Giáo sư Hoàng Xuân Nhị thì tuy không được đọc ông sớm, nhưng lại từng được nghe đó là bậc thầy có bằng Tú tài toàn phần bản xứ, rồi có bằng Thạc sĩ ở Pháp. Riêng cái bằng Tú tài toàn phần đã đưa ông lên bậc cao của giới trí thức - bởi trong so sánh với giới nhà văn thuộc thế hệ ông, thì Nam Cao (sinh 1915) chỉ có bằng Thành chung (tức hết Cấp 2), hoặc Nguyên Hồng (sinh 1918) chỉ có bằng Sơ học yếu lược (tức giữa Cấp 1). Với cái bằng ấy ở trong nước, lại có thêm cái bằng Thạc sĩ ở Pháp về, nếu được bổ làm công chức cho chính quyền thì hẳn ông sẽ có một cái ghế cao với số lương rất hậu. Sống khá lâu ở Pháp, hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước, ông từng có công trình viết bằng tiếng Pháp, đó là bản dịch Chinh phụ ngâm và một kịch bản về Truyện Kiều - chứng tỏ lòng yêu mến vốn văn chương dân tộc. Sau năm 1945 ông trở về nước tham gia Ủy ban kháng chiến - hành chính Nam Bộ, và làm Viện trưởng Viện nghiên cứu văn hóa ở Nam Bộ. Thông thạo tiếng Pháp, ông còn biết cả tiếng Anh, tiếng Đức - tôi tin là thế, khi được đọc một công trình ông viết về Schiller, năm 1955; và đây là một trong số ít cuốn sách thuộc loại gối đầu giường tôi có trong quãng đầu đời sinh viên của mình.
Trong ba năm đời sinh viên, lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với một hệ giáo trình vừa rộng, vừa sâu về văn học nước ngoài, gồm văn học phương Tây tận nguồn là Hy - La của Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường; và văn học Trung Quốc cận đại với Giáo sư Đặng Thái Mai cùng người trợ lý của ông là Trương Chính, và văn học Trung Hoa cổ điển với chuyên gia Trương Trọng Thuần. Còn văn học Nga và Nga xô viết thì do Giáo sư Hoàng Xuân Nhị và chuyên gia Mêlích Nubarốp phụ trách. Văn học Nga là khu vực hoàn toàn mới đối với thế hệ chúng tôi; và có lẽ vẫn còn là mới đối với trình độ học thuật hồi bấy giờ. Được biết khi được phân công viết và giảng giáo trình này, Giáo sư Hoàng Xuân Nhị đã phải bỏ ra hơn nửa năm học tiếng Nga; đồng thời qua các tài liệu tham khảo bằng tiếng Pháp, tiếng Đức mà soạn nên bộ giáo trình gồm nhiều tập cho sinh viên các khóa, ngay từ khóa đầu tiên của chúng tôi, qua bản in roneo được phát hàng tuần.
Có lẽ hiếm có bộ giáo trình nào được soạn một cách khẩn trương và có hiệu quả như các giáo trình dành cho sinh viên khóa đầu tiên chúng tôi.
Dễ hiểu sự kính trọng và ngưỡng mộ của chúng tôi đối với thế hệ thầy đầu tiên ở bậc Đại học là sự uyên bác, sự thâm hậu về tri thức. Một khối tri thức lớn, ở tầm cao, chứ không phải là mì trộn mì, cơm chấm cơm, như nhiều khu vực của nền giáo dục chúng ta, về sau, như thường thấy.
Nhưng quan trọng hơn, đó là cách sống, là quan hệ ứng xử, là phẩm chất và nhân cách của người thầy, trong cốt cách của truyền thống mà chưa bị thời thế làm cho hư hỏng hoặc biến dạng. Có lẽ khó mà tìm ra hiện tượng gì đáng chê trách ở đội ngũ giáo sư hàng đầu này, khiến cho quan hệ thầy trò luôn có một khoảng cách cần thiết, dành cho sự kính trọng. Ngoài ra, nếp sống giản dị cũng là nét quen thuộc ở họ. Tôi không nhớ lúc ấy các thầy đến trường bằng phương tiện gì, ngoài xe đạp, trong khi thế hệ sinh viên nội trú chúng tôi thường là đi bộ và tàu điện. Riêng Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường đi bằng chiếc mobilet, và ăn mặc lúc nào cũng chỉnh tề comlê càvạt; có phần khác với thầy Hoàng Xuân Nhị, ăn mặc thường xuề xòa, xoàng xĩnh như không ít người xứ Nghệ.