Và, nếu đã là người đọc quen thuộc của Tiểu thuyết thứ Bảy thì không thể không biết Ngọc Giao, cây bút trụ cột của tờ báo ra hàng tuần này. Bởi, trong lịch sử tồn tại hơn mười năm của tờ báo có đủ sức cạnh tranh nghiêng ngửa với Phong hóa, Ngày nay của Tự lực văn đoàn, Ngọc Giao vừa trong tư cách Thư ký tòa soạn, là tác giả thường xuyên có mặt trên trang truyện ngắn. Vậy, cứ theo tổng số kỳ hàng tuần trên hơn mười năm Tiểu thuyết thứ Bảy, cùng một vài báo khác như Ngọ báo, Tri tân, Phổ thông... mà tính thì con số trên dưới ba trăm truyện ngắn, không kể các truyện dài ông đã viết quả là một sự thật đáng tin, đủ làm nên một gương mặt đáng cho bạn đọc đương thời quen thuộc và kính nể.
Điều dễ hiểu, từ công việc mà Ngọc Giao làm với tư cách Thư ký tòa soạn, ông có tầm giao du khá rộng rãi với lực lượng viết những năm 30, gồm hầu hết các tác giả ngoài nhóm Tự lực, như Nguyễn Công Hoan, Lan Khai, Thanh Châu, Tam Lang, Tchya, Vũ Bằng, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Triệu Luật, Phan Trần Chúc, Lưu Trọng Lư, Leiba, Nguyên Hồng, Trần Huyền Trân, Thâm Tâm, Nam Cao, Nguyễn Bính, Tô Hoài... Cái nguyên tắc ai đến với Vũ Đình Long chỉ mình mình biết, không cần được biết người khác, chắc không áp dụng với Ngọc Giao.
Các tên tuổi trên, cho đến nay gần như hầu hết đã qua đời, chỉ còn Thanh Châu, sinh năm 1912 cùng lứa tuổi ông, và Tô Hoài, thuộc lớp sau. Còn ông, mất năm 1997 ở tuổi 86, ông hưởng tuổi thọ nhất trong số người đã khuất kể trên. Thọ ở tuổi 86, một cây bút đã định danh từ trước 1945 trong một sự nghiệp viết khá dồi dào, thế mà rồi Ngọc Giao trở thành người bị lãng quên, ngay từ sau 1954 cho đến cuối thập niên tám mươi, trong nền văn chương cách mạng. Đối với người làm văn, người có một sự nghiệp văn, người hướng vào sự sống tinh thần của văn chương thì một sự lãng quên như vậy có thể xem là một nỗi đau, hơn thế, một hình phạt. Thế mà ông vẫn phải sống và vẫn sống được. Và điều may mắn là cuối thập niên tám mươi, từ khởi động công cuộc đổi mới, Ngọc Giao dần dần trở lại được nghiệp viết và sức bút, để trong ngót mười năm cuối đời, khi vào tuổi tám mươi, ông đã có thể trở lại sự hiện diện cùng độc giả.
Đối với tôi, bút danh Ngọc Giao vốn đã rất quen thuộc ở tuổi lên mười, cùng với nhiều tên tuổi nổi tiếng khác của văn học trước 1945. Rồi bẵng đi hơn bốn mươi năm. Bỗng xảy ra điều không ngờ, khiến tôi vừa ngạc nhiên vừa bùi ngùi là lại được gặp ông, ở tuổi ngoài 75, tóc bạc phơ và gương mặt hồn hậu tinh anh sau cặp kính lão, vững chãi trên yên chiếc xe đạp cho đến tận những ngày cuối đời...
Vậy đây chính là nhà văn Ngọc Giao, người có những câu văn rất mềm mại và du dương mà tôi từng đọc và nhớ, như vẫn nhớ câu văn của Thạch Lam, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh? Vậy hóa ra ông vẫn cùng ở với tôi trong bầu không gian Hà Nội suốt hơn bốn mươi năm qua ư? Từ đây tôi lại thỉnh thoảng được đọc ông - để nhận lại một gương mặt quen là Ngọc Giao - sau khoảng cách ngót nửa thế kỷ. Và để không hết ngạc nhiên sao lại có một cuộc ngưng nghỉ dài đến thế, và càng ngạc nhiên, sao sau một cuộc ngưng nghỉ dài đến thế, ông vẫn có thể trở lại nghiệp viết được?
Trong tôi, văn Ngọc Giao trước 1945 có nét gì đó vừa là Hồ Dzếnh, Thạch Lam, lại vừa là Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng. Xếp ông vào ô nào trong những ô vốn đã quen thuộc của người viết phê bình và văn học sử? Gọi ông là hiện thực hoặc lãng mạn đều không thật sát hợp vì dường như ông đứng ở chỗ giáp ranh hoặc trong ông có cả hai. Quả là ông không sắc nhọn có khi đến tàn nhẫn như Vũ Trọng Phụng.
Không chua cay có cả cười và nước mắt như Nguyễn Công Hoan. Không quá thống thiết như Nguyên Hồng. Nhưng trong các chuyện đời vốn chứa đầy các nghịch cảnh dường như có mặt hầu khắp sáng tác Ngọc Giao lại vẫn dễ dàng nhận ra một ý hướng hiện thực ở ông như ba cây bút kể trên. Trong cảnh sống của lớp người dưới đáy xã hội, do không việc làm, hoặc làm những việc không lương thiện như ở bãi, Ông thầy đờn, Tội lỗi ngoài ngưỡng cửa, Người cha - ấy là Nguyên Hồng và Vũ Trọng Phụng.
Ở loại nhân vật giàu sang, hoặc bỗng chốc trở nên giàu, biến thành trưởng giả mà mất hết nhân tình và nhân tính, bạc ác đến đểu cáng ngay cả với bố mẹ mình như trong Đời nó thế - ấy là Nguyễn Công Hoan. Thế nhưng, ngồi bút Ngọc Giao ít khi là tiếng chửi, là sự phanh phui, vạch mặt nêu tên, day tay chỉ trán, mà nghiêng về phô bày. Ông phô bày một nghịch cảnh, một tâm thế, một nỗi niềm. Và dĩ nhiên là ít có niềm vui. Trong hầu hết các truyện của Ngọc Giao mà tôi được đọc, tôi hiếm thấy niềm vui, dẫu có truyện mang tên là Một đêm vui, rồi được chọn làm tên chung cho tuyển truyện đầu tiên của ông, in năm 1937.
Ở đây là cái vui vô tâm và ích kỷ của nhân vật người em, còn nhân vật chính là người chị, và phía sau là tác giả, lại là một nỗi buồn đến thắt ruột. Đi vào các nghịch cảnh với số lớn là sự tha hóa, sự tàn tạ rồi cái chết (quả có nhiều cái chết trong văn Ngọc Giao như nhận xét của Vũ Ngọc Phan), ngòi bút Ngọc Giao cơ bản vẫn là ngòi bút nghiêng về phía hoài cảm, trữ tình. Xét trên phương diện này, Ngọc Giao lại gợi nhớ Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh, Thạch Lam. Ông thường dùng một lối văn êm ái, mượt mà để biểu đạt các tình huống và tâm trạng. Thứ văn đó dễ làm nhòa mờ những nét chói gắt và tương phản của hiện thực, cùng là bôi trơn đi cái bề sâu tinh vi lắm uẩn khúc của tâm lý con người.
Sự hoài nhớ về quá vãng, nỗi lưu luyến một thời xưa qua hình ảnh những ông đồ, những nhà Nho thất thế, với nếp sống trong sạch và các thú vui cầu kỳ, thanh nhã, như để lánh xa hoặc khuây quên một hiện tại ô trọc, đầy những chuyện nhỏ nhãng vô đạo lý như trong Điêu tàn, Chén rượu bên sông Hồ lại gợi nhớ Nguyễn Tuân. Nhưng ông chưa có cái sâu sắc, tinh tế của nhà văn bậc thầy trong khả năng chạm trổ này. Đọc văn Ngọc Giao trước 1945, thấy ông vừa có khác vừa giống với nhiều người. Nói như vậy không phải để cho rằng ông không tạo được một thế giới riêng, một giọng điệu riêng. Cái riêng đó ông cũng có, nhưng chưa thật nổi lên, đến đậm nét, đến sắc nhọn, để thành một cái riêng độc đáo, không lẫn với bất cứ ai.
Xét riêng về văn thì văn Ngọc Giao quả có thiếu đi sự tự nhiên, và câu chữ có phần mòn cũ. Quen một lối văn chải chuốt êm ái để phô bày những nghịch cảnh đau xót ở đời, Ngọc Giao khó đạt được hiệu quả sáng tạo - đầy ấn tượng như văn của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao... Có cảm tưởng văn ông gần với xu hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn buổi đầu. Thế nhưng, truyện của ông lại rất ít gợi sắc dục, dẫu là sắc dục của Lạnh lùng hoặc Số đỏ.
Có thể nói đó là một lối văn sạch sẽ. Rất nhiều truyện của Ngọc Giao mô tả ái tình, những mối tình oan trái, với những con người thất vọng và sa ngã trong trường tình; rất nhiều nhân vật phụ nữ trong văn ông thường sa vào con đường giang hồ, trụy lạc, nhưng Ngọc Giao lại rất tránh việc mô tả cụ thể các trạng huống trụy lạc. Còn nếu phải mô tả nó thì ông vừa tìm cách để lánh nó, theo lối kể: “Có người giới thiệu cho Sâm một người Tây. Ông Tây ấy đã mời nàng vào một khách sạn lộng lẫy nhất Hà thành. Người ấy lợi dụng ái tình nàng nhiều lắm” (Hằn học).
Hoặc gián tiếp qua lời nhân vật:
“Đê mê, tôi thèm cái quyền sở hữu người đẹp nọ, rồi đánh bạo tôi kể sát má nàng âu yếm. Nàng không cưỡng, mỉm cười.
Rồi đêm ấy!...
Tôi bơi lội trong nguồn ân ái. Tôi biết hương vị của bông hoa bạt gió rơi xuống tay tôi do sự tình cờ” (Một chuyện quái đản).
Tránh né, hoặc làm nhòa mờ những nét thô tục, trần trụi của hiện thực trong một hơi văn sáo, có phải đó là một dụng ý đạo lý nơi Ngọc Giao mà Lãng Nhân Phùng Tất Đắc đã viết trong Lời tựa tập truyện Một đêm vui in năm 1937; cái đạo lý mà Lãng Nhân cho là phù hợp với tôn chỉ của Tiểu thuyết thứ Bảy - “tập báo của mọi gia đình lễ giáo”.
Đạo lý - đó cũng là điều cần lưu ý nơi văn Ngọc Giao. Trong sự phô bày các tình huống phi đạo lý ở đời qua nhiều truyện ngắn, người đọc lại nhận rõ một cố gắng gìn giữ đạo lý ở Ngọc Giao, con người, thậm chí dường như còn là bảo thủ mang nền nếp Nho phong trong các quan niệm về gia đình, về tình yêu, về trách nhiệm và nghĩa vụ.