
Cần nói thêm: Cô gái làng Sơn Hạ là tập truyện ngắn thứ ba của ông, Nhà xuất bản Tân Dân in năm 1942. Tập truyện có cùng tên của Nhà xuất bản Văn học in năm 1989 này phần lớn chọn lại các truyện ông viết sau 1945 trong Hà Nội tạm bị chiếm, với truyện mở đầu là Một tâm hồn trong đêm tối, và kết thúc là Đô Kinh Bắc, Để tặng các võ sĩ già, Người đưa thư - những truyện mang nặng tâm sự của riêng ông. Tâm sự của một người ở trong đêm nhưng tấm lòng vẫn hướng về phía sáng nơi một cõi trời xa; tâm sự của một người dẫu sức tàn, lực kiệt nhưng vẫn tìm thấy nguồn lực tinh thần để chiến thắng đối thủ.
Trang đầu sách Cô gái làng Sơn Hạ, ông ghi hai câu thơ:
Cúi xuống, cúi xuống, hãy cúi xuống
Thiên lý không có ở trời mà chính ở trong ta
“Thiên lý ở trong ta” là một khẳng định cứng cỏi. Nhưng sao phải đến ba lần “cúi xuống”?
Từ khởi điểm đổi mới này, và vào tuổi 80, Ngọc Giao dần dần được giải tỏa ra khỏi sự cô đơn và mặc cảm bị xa lìa suốt ngót 40 năm:
Đắng cay hội tụ gian gác nhỏ
Nửa kiếp xiềng gông chữ nghẹn lời
Năm 1993 Tổng thư ký Hội nhà văn Vũ Tú Nam trao Thẻ hội viên cho Ngọc Giao và xác nhận tư cách hội viên của ông từ 1957, tức là thuộc thế hệ sáng lập. Năm 1997, Tổng tập văn học Việt Nam, tập 29C chọn tuyển 6 truyện ngắn Ngọc Giao với tư cách một tác gia văn học thời kỳ trước 1945.
Trở lại sự hiện diện với đời, đó quả là niềm vui khó nói hết ở Ngọc Giao. Nhưng mặc cảm về sự kết thúc nghiệp văn vẫn không thôi ám ảnh ông.
Trong lời đề tặng sách Cô gái làng Sơn Hạ cho nhà thơ Vũ Quần Phương - người có góp công đưa ông trở lại sự hiện diện: “Đọc để không nỡ quên nhau cuối nẻo đường mòn văn bút, đi vào cõi hết”.
Trong lời đề tặng sách cho tôi: “Tác phẩm cuối đời, rất trân trọng kính Đến tuổi 80 - năm Canh Ngọ 1990 - nỗi buồn trong ông vẫn còn nặng nề: Ngửa mặt hỏi trời, trời chẳng nói /Mây chiều lãng đãng giạt về đâu /Ngõ trước đìu hiu dăm khóm trúc /Vườn sau nắng lạnh, bạc đầu râu. Tuổi thơ nào biết vui mái ấm/ Quán trọ cơm người cháo lẫn rau.
Ở tuổi 85, vào xuân Bính Tý 1996, trong bức ảnh tặng nhà văn Hà Nội Lê Bầu, cái hình phù du nơi kiếp tạm”.
Ông ghi: “Gửi nghĩa đệ Lê Bầu. Kể cũng khó mà nguôi tan được những ngùi ngẫm suốt một nửa đời người, lại là nửa phía sau, phía bên kia, gắn với tuổi già. Chữ “phù du” và “kiếp tạm” ông dùng đây là gắn với tâm thế “sống gửi thác về” theo cõi Phật. Ngót bốn mươi năm vô dụng, còn mong mỏi gì ở tuổi tám mươi. Thế nhưng có điều bất ngờ là sức bút của ông bỗng trở lại rất nhanh vào giữa thập niên chín mươi. Lại thấy ở ông niềm ham viết; và ở một người viết có nghề như ông, ông biết nên viết những gì cho hợp với tạng và tuổi của mình. Ấy không hề là khối u hoài được tích đọng, cũng không là những bất mãn với thời cuộc. Cũng không phải là cái thời sự nhãn tiền mà ông khó nắm hiểu. Mà là những ký vãng về một thời xưa gắn với tuổi thơ và tuổi trẻ của ông. Gắn với Hà Nội cũ, nơi ông cư ngụ.
Ông viết về nghề in ấn ở Hà Nội, với các nhà in, công nghệ in và các chủ in như Nguyễn Văn Vĩnh và Đỗ Văn. Ông viết về một kiểu người Hà Nội - như ông Lâm, bán cà phê và sưu tầm, thu gom họa phẩm và bút tích của các nghệ sĩ. Về “người phun kiếm” là Tiên ông Vũ Đình Long. Về người rất kỳ khu trong “chơi sách” là Lan Khai, thể có thể “cho mượn vợ” chứ không “cho mượn sách”. Về một thời làm báo. Về vui buồn sân khấu Hà Nội. Về thú chơi cây cảnh.
Về bóng đá, mà tôi tin ông là người rất am hiểu và bình luận rất có nghề. Về những cái ga xép - trơ trụi giữa các cánh đồng, đọc mà lây cái hiu quạnh mòn mỏi của những kiếp công chức dưới đáy thời Tây. Và cả về cựu hoàng Bảo Đại.... Rồi Hà Nội cũ, nằm đây, để ngày 18-5-96, một năm trước khi ông qua đời, bài ký trở thành nơi ông dốc nốt bầu tâm sự: “Bài ký ngắn ngủi này mang nặng nỗi quan hoài thắm thiết của tôi đối với dải bãi bến phù sa An Dương kể từ ngày tôi cùng mấy anh em văn nghệ Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính, Nguyệt Hồ, Viễn Khách sống ẩn náu ở đấy ngót hai năm tránh Tây, tránh Nhật, nghe thiên hạ sự...
Tôi đã là tề nhân gần hai năm chui bờ, rúc bụi, viết Đất; Xã Bèo, người của đất. Tôi mệnh chưa cho chết, sống quá đủ rồi. Mong đi. Đi về đâu? Về đâu? Nào biết”. Với loạt bút ký cho đến tận những tháng cuối đời này tôi cảm thấy không yên tâm nếu không đưa Ngọc Giao vào lớp người hiểu, yêu và có đóng góp đặc sắc cho mảng văn chương về Hà Nội. Ông còn có thể viết nhiều và đóng góp được nhiều hơn nếu nguồn cảm hứng này ở ông được khơi dậy sớm hơn, và có thêm tuổi thọ.
Kỷ niệm về bạn bè cũng là một mảng sâu đậm trong ông:
Bạn xưa hầu hết ra ma
Ngẫm vào xót ruột nói ra đau lòng.
Ông quyến luyến với các bạn cùng thời đã khuất, và đã kể được một ít điều về họ - những Vũ Trọng Phụng, Lê Văn Trương, Lan Khai, Tam Lang, Vũ Đình Long, Nguyễn Bính... Ông còn dự định viết tiếp về Thâm Tâm, Leiba, Trần Huyền Trân và về Tiếng cười và nước mắt thời Hà Nội cũ. Không thấy có trong dự định của ông những đồng nghiệp cùng thời và còn sống với ông trong phần nửa sau thế kỷ này? Khoảng không im lặng giữa ông và họ cũng là điều dễ hiểu khi cảnh ngộ của hai bên là ngược nhau.
Nhớ ngày Vũ Đình Long mất vào năm 1960, hình như Nguyễn Công Hoan có đưa một dòng tin nhỏ in trên báo. Nguyễn Công Hoan, người được sự sủng ái nhất, và dành nhiều đặc ân nhất, kể cả là “con nợ” của ông chủ Tân Dân, Nguyễn Công Hoan cũng chỉ làm được đến thế.
Mùa hè 1991, Ngọc Giao viết hai câu đối:
Về cõi thiên hư, đành nhẽ lạy từ Kinh Bắc
Qua thời văn bút, này đây yên giấc Tây Hồ.
Kinh Bắc là quê sinh của ông, Tây Hồ là quê ở. Phải 6 năm sau nữa mới là lúc tính đến chuyện “lạy từ” và “yên giấc”. Hóa ra ông không thể và đâu dễ triệt để cắt đứt với nghiệp bút - nó còn “hành” ông và vẫn còn là nguồn vui của ông trong thập niên chín mươi, ở tuổi ngoài tám mươi. 14 bút ký và 6 chân dung ra mắt khá đều, cùng với bút ký Mõ làng ông viết xong, chưa được in cũng là một gửi gắm tâm sự của ông, một chút cốt cách con người ông.
Giờ đây, trong năm kết thúc thế kỷ, đọc lại Ngọc Giao, tôi mới hiểu được nỗi niềm của ông; và bỗng thức dậy một niềm cảm ơn với thời cuộc, về cái hậu của thế kỷ, chung cho tất cả, và càng riêng, đối với ông. Lại càng cảm thông với niềm mong mỏi hết sức đơn sơ, và đạm bạc của ông, qua bài trả lời phỏng vấn của tờ Lao động xuân Nhâm Thân - 1992, do Bùi Việt Sơn thực hiện: “Điều mà bác muốn gửi gắm nhất với những người viết văn làm báo bây giờ? Tôi nhớ đến một câu của Ngô Thì Sĩ: “Nếu chúng ta là người thành đạt thì đừng làm khổ những người chưa thành đạt”. Tôi mong mọi người, nhất là những người viết hiểu rõ về những thời gian đã qua, trong đó có thời gian chúng tôi đã sống, đã làm việc. Hiểu và đánh giá cho công bằng cả công và “tội”.”.
Tôi không biết câu Ngô Thì Sĩ nói ở đâu, nhưng tôi biết đó cũng là nỗi niềm chung ở đời. Biết nói ra sao về hai chữ thành đạt, bởi đó là khái niệm gợi nhiều cách hiểu. Là tài năng được sử dụng. Là danh và lợi. Là sự gặp thời... Cho một cuộc đời nhìn chung ai cũng bình đẳng như nhau trước một thời gian hữu hạn tối đa là ba vạn sáu ngàn ngày. Mong sao sống cho vẹn hai chữ tình - nghĩa và cư xử với nhau cho phải lẽ công bằng. Có phải đó là ước nguyện của ông? Ước nguyện mà ông đã theo đuổi trong hành trình gần hết thế kỷ này, cả trong văn chương và trong cuộc đời. Và hy vọng là ít nhiều ông đã thấy được.