Phải là người có một cốt cách nghệ sĩ và một tầm nhìn văn hóa thì mới có được sự nhạy cảm đó, và cả sự dũng cảm đó. Một khắc khoải nhằm thúc đẩy sự phát triển và nâng cao nghệ thuật. Từ lâu ta quen gắn sứ mệnh của nghệ thuật với các yêu cầu của chính trị, của cách mạng. Nhưng ta có quên đi, hoặc bỏ qua đi một vế: Bản thân nghệ thuật cũng có các nhu cầu tự nó, cũng phải phát triển chính bản thân nó - và chính ở sự phát triển này mà nghệ thuật trở thành sự kết tinh, sự thăng hoa những khả năng sáng tạo của con người. Và như vậy, người nghệ sĩ, nếu một mặt có cả hạnh phúc và đau khổ trong sự quên mình cho nhân dân, cho cách mạng, thì mặt khác người nghệ sĩ cũng cần có cả hạnh phúc và sự quên mình, thậm chí là sự “vắt kiệt” mình đi cho những đam mê và trăn trở sáng tạo.
Cả một thời gian dài, do hoàn cảnh lịch sử và do yêu cầu của lịch sử, chúng ta chống triệt để các quan niệm văn chương phản động và văn chương phi chính trị - cũng đồng thời không chấp nhận cả những giá trị văn chương muốn được là văn chương; không phải là thứ văn chương để xa rời hoặc quay lưng với chính trị, mà là để có một hiệu quả sâu rộng hơn với cuộc sống nói chung, trong đó biết bao thể chế chính trị sẽ đi qua, nhưng những gì được kết tinh trong văn học, nghệ thuật thì vẫn cứ tồn tại.
Và rồi cho đến khi những yêu cầu khắc nghiệt của chiến tranh và cách mạng đã qua, trở về với đời thường, trong nhu cầu phát triển toàn vẹn của con người, trong một giao lưu mở với thế giới bên ngoài, ta mới có hoàn cảnh mở rộng các quan niệm văn chương, nghệ thuật, để thấy sự cần thiết cho văn chương trở về với chính nó. Đó là lý do cho sự nhận lại giá trị của Vũ Như Tô, các truyện và tùy bút trước 1945 của Nguyễn Tuân, truyện và ký của Thạch Lam, một số tiểu thuyết vào thời kỳ đầu và cuối của nhóm Tự lực văn đoàn, thơ của các tác giả trong phong trào Thơ mới, cùng với Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, sau khoảng lùi hơn nửa thế kỷ.
Trở về với Nguyễn Huy Tưởng trong chủ đề khát vọng tinh thần và nhu cầu sáng tạo của người nghệ sĩ. Trong cốt cách trí thức của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã đón nhận Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 của Đảng Cộng sản Đông Dương, gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc và đến với Cách mạng tháng Tám bằng tất cả sự chân thành và ngưỡng vọng. Tùy bút Ngày mùa Nguyễn Huy Tưởng viết vào một ngày hè năm 1946 có thể xem là một trong mấy áng văn sớm nhất về cuộc hồi sinh của đất nước và cuộc hồi sinh của lòng người vào “buổi đầu Dân quốc, nhân một ngày nhà văn về thăm quê, làng Dục Tú - ven đô: “Ôi chim muông, đồng ruộng, người và vật và làng xóm thân yêu, ta lại về đây. Tuổi ta đã đứng, tính tình ta đã khác, nhưng ta vẫn còn nguyên vẹn lòng hồn nhiên của kẻ quê mùa. Ta chào mừng ở các người và ở cả ta đây một cuộc hồi sinh vĩ đại”.
“Cuộc hồi sinh vĩ đại” ấy trong Ngày mùa ở Nguyễn Huy Tưởng, cũng như “cuộc tái sinh mầu nhiệm” trong Dân khí miền Trung của Hoài Thanh, và “liều thuốc cải lão hoàn đồng” trong Ngày đầy tuổi tôi cách mạng ở Nguyễn Tuân quả nói lên được rất nhiều điều về sự gắn bó giữa trí thức - nghệ sĩ và cách mạng. Trí thức đã đến với cách mạng như một cuộc hội ngộ cảm động. Và nếu gộp chung ba tên tuổi trên mà xét thì điều thú vị còn là ở chỗ: Cả ba đều là các kiện tướng của chủ nghĩa lãng mạn - những người đã từ thế giới “nghệ thuật vị..” mà lên đường. Nói rõ hơn, nếu như ở nhiều nơi khác, chẳng hạn ở Liên Xô (cũ) vào thời điểm Cách mạng tháng Mười, có mâu thuẫn lớn đặt ra cho giới trí thức nói chung là Tổ quốc và Cách mạng, mà không ít người phải rất căng thẳng và khó khăn trong sự chọn lựa, vì không tìm được sự hòa hợp giữa Tổ quốc và Cách mạng, thì ở ta, đối với tuyệt đại bộ phận trí thức ta, nghệ sĩ ta, dường như không có độ chênh đó, không có sự lựa chọn đó, không có mâu thuẫn đó.
Nhà văn, người trí thức ham mê lịch sử, nhà văn hóa Nguyễn Huy Tưởng, người tích cực trong các hoạt động của Hội Văn hóa cứu quốc đã đi vào Cách mạng tháng Tám và tham gia kháng chiến với tất cả sự hào hứng chân thành, không có chút khập khiễng nào giữa tư cách người công dân và nhà nghệ sĩ. Thế mà rồi, cũng chính nhà văn và người trí thức ấy lại phải trải những tháng năm đầy thao thức, có lúc khá nặng nề, khi bước vào cuộc sống hòa bình, sau 1954, cho đến lúc qua đời'.
Mới hay thử thách của hòa bình và thử thách của đời thường quả là gay gắt, có mặt còn gay gắt hơn cả chiến tranh, mà trong thể nghiệm của đổi mới hôm nay, ta mới thật sự hiểu. Bởi lẽ thực chất thử thách của hòa bình là sự trả lời câu hỏi lớn nhất và cũng là bức thiết nhất đặt ra chung cho toàn dân tộc, và cũng là riêng cho từng người: Cuộc sống tiến lên như thế nào, theo phương hướng nào, và nghệ thuật phát triển ra sao? Có thể nói, với Nguyễn Huy Tưởng, đó là “những ngày đau đớn nhất”...
Thế nhưng ông đã có Sống mãi với Thủ đô trong những ngày đầy dằn vặt và căng thẳng này.
Cũng những ngày này, khi thôi các chức trách ở Hội Văn nghệ, ông đã chuyển sang việc tổ chức và làm giám đốc đầu tiên của Nhà xuất bản Kim Đồng. L. Tolstoy - người mà Nguyễn Huy Tưởng rất yêu mến và chịu nhiều ảnh hưởng, hẳn rất thư thái trong những trang viết cho thiếu nhi vào cuối đời. Còn Nguyễn Huy Tưởng, rõ ràng đó là những năm không yên, những năm lòng đầy u ám, nhưng những trang viết cho thiếu nhi như Tìm mẹ, An Dương Vương xây thành ốc, Lá cờ thêu sáu chữ vàng, Kể chuyện Quang Trung... ông dành cho các em lại là những trang đầy chất thơ, huy hoàng và trong trẻo.
Cũng trong những ngày hòa bình, ông đã có dịp nhìn lại và nghiền ngẫm về hành trình văn chương và sự nghiệp của mình. Trong nhật ký ghi ngày 8-7-1956, ông viết: “Trong người không vui. Mình đã lăn lộn với nghề văn hơn mười năm, đã có ít nhiều tiếng tăm, cũng có ít nhiều địa vị. Than ôi! Nhưng mà sao mờ mờ nhân ảnh. Tất cả những tác phẩm của mình đều vội vàng, hấp tấp, nhất thời. Chẳng xây dựng được chút tâm hồn. Mới ra thì ầm ỹ một chút. Rồi nó lại chìm đi. Bắc Sơn, Những người ở lại, Truyện anh Lục... Mà chính ta, cũng không muốn nhìn lại nữa...”.
Vậy là ông đã thất vọng, hoặc nói theo ngôn ngữ bây giờ, ông đã làm một cuộc “nhận thức lại” về mình.