Giáo sư Hoàng Xuân Nhị: Người mở lối cho văn học Nga ở Việt Nam (Phần 2 và hết)

Chỉ học với thầy Hoàng Xuân Nhị ba năm đại học, nhưng suốt nhiều thập kỷ sau, tôi vẫn giữ nguyên lòng kính trọng với một bậc giáo sư mẫu mực, người đã góp phần đặt nền móng cho khoa Ngữ văn và nền học thuật Việt Nam hiện đại.
gs-hoang-xuan-nhi-voi-cac-sinh-vien-k16-khoa-ngu-van-dai-hoc-tong-hop-12106215-1-1753287475.jpg
Khoảnh khắc thầy và trò – Giáo sư Hoàng Xuân Nhị cùng các sinh viên khoa Ngữ văn của Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ảnh: Đại học Quốc Gia Hà Nội

Thế hệ tôi chỉ có ba năm ở trường học với các thầy. Ba năm với bao nhiêu là thầy; nhưng mỗi thầy vẫn có một góc riêng trong kỷ niệm. Cuối năm 1959, tôi được phân công về Viện Văn học; ở đây hai bậc thầy Đặng Thai Mai và Hoài Thanh trở thành thủ trưởng của tôi. Thầy Nhị, cùng các thầy khác ở trường rồi trở thành cộng tác viên của Viện. Trong vị trí một sinh viên học việc, tôi tiếp tục sự kính trọng và ngưỡng mộ khi được tiếp đón các thầy trong tư cách là khách quý, mỗi khi Viện có các sự kiện quan trọng. Tôi còn biết thầy Hoàng Xuân Nhị thuộc trong số người đầu tiên được Ban Tuyên giáo Trung ương mời để bàn bạc về nhân sự cho việc thành lập Viện Văn học; rất có thể ông được tham gia Ban lãnh đạo, hoặc ít nhất cũng thuộc dàn sáng lập Viện Văn học. Nhưng rồi cấp trên đã quyết định chọn hai người là Đặng Thai Mai và Hoài Thanh; một là đương nhiệm Chủ tịch và một là Tổng thư ký Hội liên hiệp văn học - nghệ thuật Việt Nam.

Thuộc dàn giáo sư đầu tiên của Đại học Tổng hợp Hà Nội, thầy Hoàng Xuân Nhị là vị Trưởng khoa đầu tiên có thâm niên dài nhất ở khoa Ngữ văn, cho đến khi nghỉ hưu - 1982, nếu tôi không nhớ nhầm. Cũng giống như Giáo sư Ngụy Như Kontum, là vị Hiệu trưởng đầu tiên và giữ chức Hiệu trưởng dài nhất ở Đại học Tổng hợp mà tháng 5 năm ngoái đã diễn ra lễ kỷ niệm 100 năm sinh. Chỉ được học với ông trong ba năm, nhưng nhiều chục năm sau tôi vẫn luôn luôn gọi ông bằng thấy. Trong khi một số thầy khác như Trương Chính, Hoàng Như Mai, Đinh Gia Khánh, Đỗ Đức Hiểu... tôi đã nhanh chóng hoặc dần dà chuyển sang bằng anh - cho nó thân mật. Có những lý do riêng hoặc chung cho sự chuyển đổi ấy. Đối với thầy Nhị tôi luôn giữ một niềm kính trọng, bởi những hành trình xa và gần mà thầy đã có; bởi các chức trách mà ông đảm nhiệm ở Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp; và bởi cái niềm ngưỡng mộ trước một dòng họ lớn là họ Hoàng Xuân gắn với một tên tuổi lớn như Hoàng Xuân Hãn, quê ở Yên Hồ huyện Đức Thọ, chỉ cách ngã ba sông quê tôi dăm bảy cây số đường đê.

Ở cương vị Trưởng khoa trong nhiều năm, thầy cũng đồng thời có một sự nghiệp viết trên nhiều lĩnh vực. Ngoài văn học Nga mà thầy là người khai mở, với công lớn nhất là công khai mở, thầy còn có các công trình về Gorki và Mayakovsky; là người dịch nhiều sách về mỹ học, lý luận văn học; và cũng là người nhiệt tình cổ vũ cho văn học mới - qua những nghiên cứu về thơ văn Hồ Chủ tịch, và khẳng định lý luận văn học Marxist và đường lối văn nghệ của Đảng.

Định hướng ấy, mục tiêu ấy gần như là chung cho một thời, trong đó có cả hai vị lãnh đạo và các bậc đàn anh của tôi ở Viện Văn học. Có một thời như thế. Cả một thời là như thế! Cho đến đầu Đổi mới. Thầy về hưu năm 1982, khi sự nghiệp Đổi mới mới chỉ le lói những tia sáng đầu tiên. Bài viết cuối cùng trong số 17 bài thấy viết cho Tạp chí Văn học là bài đặt ở đầu số 3 (tháng 5-6-1983), bàn về K. Marx với văn học nghệ thuật, sau các bài về tính dân tộc, tính nhân dân, tính đảng; về lý luận văn học Xô viết; về lý luận của Trường Chinh, và về thơ Hồ Chủ tịch... Sau đó, tôi không được đọc cuốn sách nào, hoặc bài viết nào của thầy. Cũng không được đọc những bài viết nào về thầy. Chỉ được nghe có thời gian thầy rất chuyên tâm cho việc dịch Ngục trung nhật ký; nhưng không hiểu là dịch ra tiếng Pháp (trước đó đã có bản dịch rất tốt của Phan Nhuận) hoặc ra tiếng Việt (để thay cho bản của Nam Trân và Viện Văn học). Và một chuyến đi Pháp, không biết là trước hay sau khi về hưu, với rất nhiều vất vả trong giấy phép và kinh phí, khi thế giới còn chia làm hai phe. Còn ngoài ra, không biết thầy có gặp khó khăn gì về sức khỏe, hoặc uẩn khúc gì trong tâm thế, ở tuổi ngoài 70 cho đến tuổi 77, năm 1991 là năm thầy qua đời.

Tôi không có cơ hội để gần gũi thầy ngoài ba năm ở bậc Đại học. Cũng chắc chắn là thầy không biết tôi là ai; vì với thầy, mọi quan hệ với Viện Văn học chỉ giới hạn ở hai vị lãnh đạo và các bậc đàn anh như Nam Mộc, Vũ Đức Phúc, Hoàng Trinh... Do vậy mà mọi chuyện đời bình thường, gồm cả các “giai thoại” về thầy tôi rất ít được nghe. Do vậy mà những ấn tượng về thầy cứ được giữ nguyên như buổi đầu đời. Một mái tóc cùng hai hàng lông mi sớm bạc trắng; phong thái chậm rãi, ung dung; giọng nói vang, tiếng cười rổn rảng; cử chỉ hồn nhiên, xuề xòa mà gần gũi với bất cứ ai dẫu là quen hoặc lạ có dịp được bắt tay thầy...

hoang-xuan-nhi-photo-maker-by-buituan-1-1753287475.jpg
Giáo sư Hoàng Xuân Nhị trong một buổi phát biểu học thuật – phong thái ung dung, cử chỉ hồn nhiên, giọng nói vang vọng là những nét không thể quên với nhiều thế hệ học trò. Ảnh: Đại học Quốc Gia Hà Nội

Trong bận rộn túi bụi của những năm 1980 để vượt qua những khó khăn tận đáy của thời hậu chiến và bao cấp; trong vất vả xoay trở với những va đập lên bờ xuống ruộng thời đầu đổi mới cho đến hết thập niên 1990 tôi ít được thông tin gì về thầy, cũng như một số giáo sư khác ở Đại học. Phải đến một lúc nào đó, khi có độ lùi thời gian cho sự lắng lại, trong lại của mạch đời, dòng đời; và cũng phải đến một tuổi đời nào đấy, tôi mới có dịp ôn và nghĩ lại những thế hệ thầy và các bậc đàn anh đi trước, để thức nhận ra những điều thật đơn giản nằm trong phương ngôn, tục ngữ của dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Không thầy đố mày làm nên”, “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”... Đã đành “Con hơn cha là nhà có phúc” - đó là qui luật chung của sự tiến bộ. Nhưng phải có cha rồi mới có con - có thầy rồi mới có trò. Không biết đến hôm nay, trong nền kinh tế thị trường, khi đồng tiền lên ngôi, những cách nghĩ, những phương châm ấy có còn hợp thời nữa không, có nên vận dụng nữa không? Còn đối với riêng tôi, những bậc tiền bối từ thuở vào đời, vào nghề như Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Phạm Thiều, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Mạnh Tường, Hoàng Xuân Nhị, Hoàng Như Mai, Đinh Gia Khánh, Vũ Đức Phúc, Cao Huy Đỉnh... họ mãi mãi vẫn là thầy, là anh. Dẫu có chút ít danh hoặc vị này nọ, tôi không bao giờ nghĩ là mình có thể, hoặc phải vượt những người đi trước, bởi lịch sử đặt ra cho mỗi thế hệ một nhiệm vụ mới và khác. Do vậy, nếu về tri thức và chuyên môn là cái phải được kế thừa, để tiếp tục và bổ sung, thì về nhân cách và đạo lý lại là một hằng số không đổi, khiến cho các bậc tiền bối như tôi đã kể trên, luôn luôn là những tấm gương sáng cho chúng tôi soi vào, để mãi mãi không được quên ơn; để mãi mãi họ vẫn cứ là những chuyên gia đích thực, những người chân chính và tử tế, dường như bỗng trở nên vắng thiếu, thậm chí hiếm hoi trong bối cảnh bây giờ!

Cuối cùng tôi muốn giành đôi dòng trước khi kết thúc bài viết cho một băn khoăn, hoặc đúng hơn là bùi ngùi: Không biết vì lý do gì khiến cho Giáo sư Hoàng Xuân Nhị, từ sau khi về hưu có bị lãng quên trong một thời gian khá lâu. Ít có sinh hoạt học thuật nào trong giới nghề nghiệp ở cả ba nơi: Đại học, các Viện nghiên cứu và Hội Nhà văn có mặt ông hoặc nhắc đến tên ông. Trong Từ điển văn học - bộ mới mà tác giả số lớn là những học trò của ông in năm 2004 gần như có đủ tên tuổi các đồng nghiệp cùng thời và sau ông như Nguyễn Lương Ngọc, Huỳnh Lý, Trương Chính, Lê Trí Viễn, Hoàng Như Mai, Đinh Gia Khánh, Trần Đình Hượu... Rồi Hoàng Minh Châu, Hoàng Văn Bổn, Hoàng Tuệ... còn Hoàng Xuân Nhị thì không! May là ngoài “Gu gờ” (Google) còn có cuốn kỷ yếu Nhà văn Việt Nam hiện đại của Hội Nhà văn Việt Nam - năm 2010 và Nhà văn Việt Nam hiện đại tỉnh Hà Tĩnh - năm 2011 có dành một trang cho ông để mà tra cứu!

Không biết như vậy có là bất công với ông không?

GS. Phong Lê