Ngọc Giao, người khỏi bị lãng quên vào cuối thế kỷ (Phần 3)

Từ sau 1954 Ngọc Giao bắt đầu một cuộc sống đầy mặc cảm về sự kỳ thị và quên lãng của người đời. Ông khó tránh phải từ bỏ nghiệp văn. Không riêng Ngọc Giao, một số người viết khác không đi kháng chiến, hoặc trở về nội thành cũng không dễ viết, nhưng ít có ai gác bút đến triệt để như ông.
temphieu-puhu-1748188398.webp
Sau 1954, trong khó khăn kinh tế, gia đình ông phải bươn chải ở 88 Phố Mới (nay là Hàng Chiếu).

Một người chuyên viết, đã rất quen viết, có cả một sự nghiệp viết, thế mà rồi tuyệt đối phải gác bút ở tuổi ngoài bốn mươi - đó quả là một chuyện rất bất thường, là một nghịch cảnh. Rơi vào hoàn cảnh ấy, tôi cứ băn khoăn chắc chắn họ phải có một lối thoát nào? Thôi viết, chuyển làm một nghề khác, chẳng dính dáng gì đến văn chương, cũng đã có người làm. Để sống. Và để quên.

Để sống, dường như trước 1945 không phải là chuyện quá thúc bách đối với ông như đối với Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao... bởi ông có hai bà vợ đều rất đảm, buôn bán ở 88 Phố Mới, nay là phố Hàng Chiếu, và số 9 phố Đồng Xuân. Sau 1954, gia đình ông quả có khó khăn hơn, nhưng xem ra, ngoài nghề viết, ông không có nghề gì khác. Hoặc cũng có những việc không thể gọi là nghề rồi ông cũng phải làm như việc mở quầy sách ở Cửa Bắc, rồi Bến Nứa... Rồi do bom đạn mà quầy sách phải chuyển về Gò Đống Đa, như trong một đôi câu đối của ông:

Đẩy xe Kinh Sử, ngẩng đầu vọng gió Tây Sơn

Ngẫm chuyện Hoài Âm, ép bụng thương mình Hàn Tín

Nếu không thể bỏ viết, quên viết, vì nghiệp thì cứ viết rồi để đấy - đó cũng là chuyện xảy ra với nhiều người. Nhưng xem ra ông cũng không làm. Ngoài bản thảo Xóm Rá phê phán đời sống đô thị miền Nam trước 1954 ông còn giữ được, rồi lưu lạc, ông không viết thêm gì. Ông đã ngán chuyện viết đến thế ư? Gần đây tôi mới được biết, vào khoảng đầu những năm sáu mươi ông có viết một vở kịch lịch sử về phong trào chống Pháp của Phan Đình Phùng. Vở kịch được gửi đi nhưng không được trả lời. Sau đó, cũng vở ấy được in dưới tên một người khác, nhưng ông không đi kiện. Người như ông lúc bấy giờ sao mà dám kiện. Rồi ông thôi luôn chuyện viết lách.

Vậy là có thể nói ông đã tự kết thúc nghiệp viết của mình từ sau 1954, khi ở tuổi ngoài bốn mươi. Cảm nhận nghiệt ngã về sự kết thúc quá sớm nghiệp bút đã đến với ông, trong một sự lặng im đầy u uẩn. Và cố nhiên là cô đơn. Nỗi cô đơn càng nặng theo thời gian và tuổi tác. Ông khao khát đến với bạn bè. Nhưng bạn bè cùng thế hệ nhiều người đã khuất, còn những người khác lại rất ít người có cảnh ngộ như ông.

Riêng một người có lịch sử quen và thân khá lâu đối với ông là Nguyễn Công Hoan, thế mà cũng mãi đến năm 1976 nhân Nguyễn Công Hoan đến thăm gia đình ông ở 30 phố Châu Long, ông mới có dịp đánh bạo nhờ nhà văn nổi tiếng mua hộ một cái vé tàu vào Nam, lúc bấy giờ mua rất khó.

Hơn ba mươi năm, ngót bốn mươi năm, đâu phải ngắn cho một đời người. Trong sự phát triển theo gia tốc lịch sử tính từng thập niên một của thế kỷ XX, mọi chuyện đời rất dễ bị vùi vào quên lãng, hoặc trở nên lạc điệu. Tố Tâm đang nổi như cồn bỗng trở nên lạc lõng ngay sau dăm năm khi Khái Hưng cho ra mắt Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân... Trước Hoàng Ngọc Phách là Hồ Biểu Chánh, trước Hồ Biểu Chánh là Phan Bội Châu - chỉ trong khoảng ngót hai mươi năm mà là sự khác biệt của ba kiểu người viết, thuộc ba thế hệ viết.

Để thấy trong ngót bốn mươi năm ngừng bút của Ngọc Giao, tính từ sau 1954, ấy là sự hiện diện của vài ba thế hệ người viết, cả mới lẫn cũ. Còn Ngọc Giao, từ tuổi ngoài bốn mươi, bỗng trở thành ông già không nghề nghiệp, rồi thành người cuối cùng của thời Tiểu thuyết thứ Bảy còn lưu lại với thế kỷ. Biết bao là u hoài, là cô quạnh ở trong ông!

Tôi đang lần dở lại một ít di bút để thử hình dung chút ít nỗi cô đơn của ông. Năm 1981 ông có bài Hoài cảm: Tài sơ vua chúa bỏ/ Suy nhược bạn bè xa/ Khuya tìm Liêu Trai đọc/ Nghe gió vọng hồn ma/ Ma, người đều không đến/ Âu là ta với ta/ Giang Châu sầu đất trích/ Tư Mã lệ khôn nhòa.

Thu 1986, ông làm bài Nhớ Hoa Tâm. Người Hà Nội cũ là ông sao mà không nhớ những vui buồn của sân khấu một thời, với những tên người như Lệ Thanh, Kim Xuân, Hoa Tâm.

Đây là một vài khổ của bài thơ Nhớ...

Một sớm chợt nghe cơn lá rụng /Cái tin người ấy đã qua đời /Người ấy là ai, ai có nhớ/ Hoa tàn, tâm rữa, kiếp hoa rơi

Chị đã đi rồi, thôi đi nhé/ Khóc cười thiên hạ vẫn là đây/ “Xúy Vân” khôn dại nào ai biết?/ “Gái lẳng lên chùa” mấy kẻ say?

Và khổ cuối:

Ta vẫn ngồi đây ngẫm chuyện đời

Bạn cùng đêm tối bóng ma trơi...

Thu 1986 ấy, Ngọc Giao chẵn tuổi 75. Chua chát và mỏi mệt biết bao ở hai câu cuối. Nhưng cũng năm 1986, vào xuân, ông lại có những câu không báo hiệu một sự suy sụp hoàn toàn:

Chưa một xuân nào ta khai bút/ Xuân này thơ thẩn mấy vẫn chơi/ Pháo reo thiên hạ xuân vỗ cánh /Ngồi đây lặng ngắm đóa hoa cười

Đã có “hoa cười” chăng trong ông, khi, từ cuối 1986, với Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước chuyển vào thời kỳ đổi mới.

GS. Phong Lê