Dường như tất cả các vấn đề trên trong sự tồn tại hai mặt của nó đều cùng xuất hiện, cùng nổi lên ngay khi Nguyễn Huy Tưởng trình làng ở tuổi 30 vở kịch Vũ Như Tô và tiểu thuyết Đêm hội Long Trì, và kết thúc ở tuổi 49 với kịch phim Lũy Hoa và tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô.
Lịch sử - đó là mối quan tâm sâu sắc và thường xuyên của Nguyễn Huy Tưởng để hiểu những gì xuyên suốt làm nên sự hiện diện, sự trường tồn của dân tộc và văn hóa dân tộc. Đó lại vừa là khoảng lùi cho ông chiêm nghiệm chính gương mặt của hiện tại. Khoảng lùi nhiều thế kỷ như bức tranh Thăng Long thời Lê - Trịnh trong đó nổi chìm thân phận cặp giai nhân tài tử Quỳnh Hoa - Bảo Kim trong Đêm hội Long Trì. Khoảng lùi còn sâu hơn là Thăng Long thời Lê Tương Dực với số phận cặp tri kỷ Đan Thiềm - Vũ Như Tô trong kịch Vũ Như Tô.
Lịch sử nhưng thời sự. Và Sống mãi với Thủ đô dựng lại cuộc kháng chiến của quân dân Hà Nội trong và sau ngày Toàn quốc kháng chiến 19-12-1946, chỉ sau khoảng lùi ngót mười lăm năm, còn rất thời sự, nhưng không khí truyện, âm điệu truyện, màu sắc truyện lại vẫn như được gội trong một màn sương lịch sử.
Có vốn tri thức rộng và sâu về quá khứ dân tộc, cuộc sống trong cảm nhận của Nguyễn Huy Tưởng không bao giờ là một nhát cắt ngang mà là gồm nhiều đường mạch gắn bó với lịch sử. Và lịch sử, trong sự kết nối từ quá khứ đến hiện tại, đó là sự song hành hoặc tương phản giữa một bên là bạo lực của ngoại xâm, của cường quyền, của những rối ren và náo động của xã hội, với một bên là sự mỏng manh, sự bấp bênh của những số phận, những cuộc tình, những đam mê và khát vọng của con người, trong đó có vị trí trung tâm là người trí thức.
Dễ dàng thấy rõ đặc điểm này như là nét quán xuyến hành trình tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng.
Bi kịch của Vũ Như Tô, cũng là của An Tư, của Quỳnh Hoa, của bác sĩ Thành trong các sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng những năm bốn mươi và tâm trạng, suy tư của nhân vật trí thức trong bút ký và tiểu thuyết nửa sau những năm năm mươi (thế kỷ trước) dường như đều trong cùng một mẫu hình chung như vậy.
Cho đến khi qua đời, trên tất cả những tác phẩm quan trọng của Nguyễn Huy Tưởng, dường như đều nổi rõ hình ảnh người trí thức, nghệ sĩ trong bão táp của những biến động xã hội và trong khát khao được đóng góp và sáng tạo.
Trí thức - nghệ sĩ với khát vọng sáng tạo, với nhu cầu bên trong được sáng tạo, sao cho sản phẩm tinh thần của mình có đóng góp và làm giàu cho nền văn hóa dân tộc - đó quả là một đề tài không nhỏ và không đơn giản.
Khát vọng sáng tạo và sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ quan hệ như thế nào với đất nước, với nhân dân và với cách mạng? Đó là một quan hệ thuận hoặc nghịch, hoặc có cả mặt thuận và mặt nghịch? Trên những cơ sở xã hội nào, những nền tảng luân lý và đạo đức nào thì khát vọng đó được thỏa mãn, và sáng tạo đạt được thành công? Đó là vấn đề đặt ra lâu dài cho lịch sử, cho tương lai, và do vậy, cũng là cho văn học. Và đó còn là vấn đề đặt ra cho sự cảm thụ và thẩm định lại Vũ Như Tô, tác phẩm ra đời cách đây trên sáu mươi năm và đến hôm nay còn khiến ta suy nghĩ.
Nghệ thuật là sản phẩm của sự sáng tạo và nghệ sĩ là người khát khao sự sáng tạo. Sự sáng tạo đích thực có phải lúc nào cũng đem lại lợi ích trực tiếp, cụ thể cho nhân quần và được người đời hiểu không? Và ý nghĩa của sáng tạo là ở đâu trên hành trình đi đến cùng và kết hợp ba mục tiêu Chân - Thiện - Mỹ? Dường như bấy nhiêu câu chuyện đó đều được đặt ra trong Vũ Như Tô, thuộc trong số tác phẩm đầu tay của nhà văn “trẻ” Nguyễn Huy Tưởng lúc này đã vào tuổi 30.