Một mặt là sự bần cùng hóa rồi đưa tới thảm trạng hai triệu người chết đói. Một mặt là quá trình cách mạng hóa đưa tới Cách mạng tháng Tám - 1945. Trong bối cảnh sôi sục ấy, ở tư cách nhà văn, Nguyễn Huy Tưởng lại hướng người đọc lùi sâu vào lịch sử; và sự quan tâm của ông lại dành cho một khu vực xem ra là không gắn mấy với thời sự: Vấn đề khát vọng sáng tạo vì nền văn hóa dân tộc và số phận bi kịch của người nghệ sĩ.
Thế nhưng trong khu vực xem ra là tĩnh lặng ấy của lịch sử lại thấy chất đầy giông bão. Giông bão trong sức mạnh của quyền lực và trong khát vọng của sáng tạo. Giông bão trong ý chí thực hiện những quyền lợi ích kỷ của đám vua chúa thống trị và ước nguyện của số đông. Những giông bão tưởng như xa thời cuộc nhưng vẫn là nằm trong mạch sâu những vấn đề của sự tồn tại và phát triển của dân tộc và văn hóa dân tộc.
Nửa đầu những năm bốn mươi thế kỷ trước, có thể nghĩ về Nguyễn Huy Tưởng như một tác gia chuyên về đề tài lịch sử, với các tiểu thuyết Đêm hội Long Trì, An Tư, với kịch Vũ Như Tô, Cột đồng Mã Viện, trong đó Vũ Như Tô là kịch bản thể hiện và chứa đựng rõ nhất những quan niệm nghệ thuật mới mẻ và sâu sắc của nhà văn. Và không phải chỉ riêng ở thời điểm kịch ra đời. Suốt từ 1942 cho đến khi qua đời, qua nhật ký của nhà văn, chúng ta biết “ám ảnh” của Vũ Như Tô đối với ông thật dai dẳng.
Dường như không lúc nào ông không nghĩ đến nó trong một phân vân không biết đã đi được đến cùng những ý tưởng và quan niệm nghệ thuật của mình; trong một ngần ngại không biết vở kịch có được người đời thật sự hiểu không. Và có thể cả trong một khát vọng muốn hoàn thiện nó, nhưng dường như nhà văn lại là người biết rõ hơn ai hết, đó là việc không dễ có thể hoàn thiện. Và cuối cùng, vở kịch cứ phải tồn tại như một câu hỏi, một cách đặt vấn đề còn để ngỏ; dẫu số lượng nhân vật và chi tiết của lời thoại từ bản in đầu tiên trên Tri tân đến bản cuối lần đầu đưa vào sách, năm 1963 - sau khi nhà văn qua đời - là có rất nhiều sửa chữa.
Nhà văn, gần như vào bất cứ thời gian nào - trong những ngày sôi nổi của Cách mạng tháng Tám, những năm gian khổ kháng chiến chống Pháp, những tháng ngày đầy băn khoăn thao thức sau 1954... đều trở đi trở lại việc sửa chữa, hoàn thiện kịch bản Vũ Như Tô.
Có thể nói Nguyễn Huy Tưởng đã dồn hết tâm lực của mình vào hai nhân vật chính của kịch là Vũ Như Tô và Đan Thiềm. Cặp tri âm tri kỷ này nói nhiều với ta về những khát vọng lớn lao của con người; khát vọng đó đã được thực hiện ở những người có chí có tài, nhưng lại phải ở vào những tình cảnh trớ trêu, bất hạnh. Họ đã thật sự quên mình cho một sự nghiệp lớn hơn bản thân họ.
Đan Thiềm vì tri kỷ Vũ Như Tô đã một lần khuyên Vũ nên nhận xây Cửu Trùng Đài; và tiếp đó, khi Vũ Như Tô bị truy nã lại khuyên ông bỏ trốn; rồi do Vũ Như Tô không chịu bỏ trốn, và lo cho người tài của đất nước bị bỏ mạng nên đã nhận chết thay cho ông... Vũ Như Tô, vì tri kỷ Đan Thiềm mà lao vào một sự nghiệp rồi sẽ bị thiêu cháy; trong sự nghiệp đó, người nghệ sĩ lớn ngay từ đầu đã dứt khoát: “Xây Cửu Trùng Đài cho một tên bạo chúa, một tên thoán nghịch, cho một lũ gái dâm ô? Tôi không thể đem tài ra làm bia miệng cho người đời được”; nhưng rồi nghe theo lời Đan Thiềm ông đã nhận lời và hăng hái nhập cuộc.
Cho đến khi bị điệu ra pháp trường ông vẫn còn ngơ ngác: “Ta tội gì? Không, ta chỉ có một hoài bão là tô điểm cho đất nước, đem hết tài ra xây cho nòi giống một tòa đài hoa lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hóa công. Vậy thì ta có tội gì? Ta xây Cửu Trùng Đài có phải đâu để hại nước!”. Bi kịch lớn là ở đây. Ở một sự nghiệp muốn được sống lâu dài theo thời gian, muốn là biểu tượng vẻ vang của xứ sở, nhưng lại phục vụ cho cường quyền. Là kết quả sáng tạo của người nghệ sĩ nhưng lại được thực hiện trên mồ hôi, xương máu của nhân dân. Giải quyết mâu thuẫn và bi kịch này như thế nào, đó là cả một câu hỏi lớn. Nguyễn Huy Tưởng phải để cho nhân vật chết trong lửa hận của quần chúng; nhưng cái niềm phân vân và giằng co chưa thể giải tỏa trong quan niệm nghệ thuật, ông đem đặt vào lời đề từ của tác phẩm:
“... Than ôi! Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”.
Cũng chính vì sự phân vân này mà cả một thời gian dài, suốt hai thập niên, dẫu đã trải nhiều lần sửa chữa, Vũ Như Tô vẫn chưa thể đưa in. Nhưng nó là cả một nỗi niềm của tác giả. Cho đến lúc biết mình bị trọng bệnh nhà văn vẫn còn cẩn thận cho đánh máy lại lời Đề tựa, để chờ cơ hội cho đứa con tinh thần của mình được ra đời. Sau ngày tác giả mất, vở kịch đã có may mắn được đưa in, nhưng vẫn cứ để lại bao mối lo cho người thân và bè bạn.
Làm sao lại có sự phân vân “mất lập trường” như vậy trước một quan niệm nghệ thuật dứt khoát là không “vị nhân sinh”, và trước một nhân vật rõ ràng là đáng phê phán và lên án là Vũ Như Tô? Còn những kẻ giết Vũ Như Tô, trong đó có đám quần chúng hò reo đòi đốt phá kinh thành, và đốt phá Cửu Trùng Đài thì hẳn phải là hiện thân cho vai trò của nhân dân, cho sức mạnh của chính nghĩa... Nhưng rõ ràng trong tâm trạng của không ít người viết và trong dư luận xã hội thì vẫn còn lắm phân vân. Bây giờ đây câu hỏi vẫn còn treo. Nhưng mặc cho mọi sự phán xét là nghiêng về phía này hay phía kia, lịch sử vẫn cứ là lịch sử.
Chế độ nô lệ là dựa trên xương máu và lao động khổ sai của hàng triệu nô lệ, và nhờ vào đó mà có một nền văn minh Cổ đại vào loại rực rỡ nhất của nhân loại. Đài Cửu Trùng của Vũ Như Tô ở Việt Nam đã bị thiêu ra tro đầu thế kỷ XVI, nhưng Kim tự tháp ở Ai Cập, đền Angkor ở Campuchia và Vạn Lý Trường Thành ở Trung Hoa thì tồn tại. Nó được liệt vào hàng những kỳ quan của nhân loại và được xem là biểu tượng của những nền văn minh. Văn minh có những cái giá phải trả. Nhưng văn minh là biểu hiện, là kết tinh những khát vọng về sự bất tử của con người.
Vậy là lịch sử cũng đã có câu trả lời theo cách của nó trên từng khu vực, qua số phận các dân tộc. Và lịch sử cũng đã chứng tỏ, như nhận xét của Đan Thiềm: “Vua Hồng Thuận và lũ cung nữ kia rồi mất đi...”. Cũng như nhiều thế kỷ đã qua và nhiều thế hệ vua quan đã chết. Nhưng nghệ thuật thì tồn tại. Bởi lẽ nghệ thuật chính là khát vọng về sự bất tử của con người. Niềm khao khát về sự bất tử đó của nghệ thuật, về sự thăng hoa những khả năng sáng tạo của con người ở Vũ Như Tô, cũng là ở Nguyễn Huy Tưởng phải chăng sẽ tồn tại?
Đề tựa: “Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”, nhà nghệ sĩ Nguyễn Huy Tưởng đã tìm được một bạn tri âm cũng như Vũ Như Tô đã tìm được người tri kỷ.
Kịch Vũ Như Tô quả có vóc dáng vạm vỡ của một tượng đài. Nói đúng hơn, một nhóm tượng đài, với cuồn cuộn lửa khói và đám đông hò reo, với thấp thoáng bóng dáng sầu muộn của Đan Thiềm, và gương mặt vừa rạng rỡ, vừa quằn quại, đau khổ của Vũ Như Tô khi thấy Cửu Trùng Đài bốc cháy.
Và vang vọng trong suốt hồi cuối vở kịch là tiếng lòng thống thiết của Vũ Như Tô: “Đời ta không quý bằng Cửu Trùng Đài!”.
Cái ý tưởng người nghệ sĩ trong sự xả thân ấy, chúng ta có thể tìm thấy trong một quan niệm nghệ thuật thật là khắc nghiệt ở G. Flaubert - nhà văn hiện thực lớn thế kỷ XIX của Pháp: Nghệ sĩ phải là người mà cuộc đời chỉ là phương tiện cho nghệ thuật.
Nguyễn Huy Tưởng đã gửi gắm vào đây, trong vở kịch, cũng ngổn ngang như chính Cửu Trùng Đài, cả một nỗi khắc khoải lớn khi đi tìm câu hỏi và lời giải cho mục tiêu xa của nghệ thuật.