
Nhiều người có tên tuổi và chính bản thân ông cũng đã từng “ký vãng” về số phận cái Chính phủ non yếu này; ở đây, nhắc lại sự kiện trên, tôi chỉ muốn nhấn mạnh một điều là: chỉ trong bốn tháng ở ghế Bộ trưởng mà Hoàng Xuân Hãn cũng đã làm được khá nhiều việc theo cái đà của sự quan tâm đến quốc học, đến nền quốc văn và ngữ ngôn dân tộc mà ông đã có từ lâu. Sự quan tâm đến việc dạy và học tiếng Việt trong học đường, bộ sách Danh từ khoa học mà ông đã viết trước đó 3 năm, cùng Chương trình Trung học, ông soạn thảo trong 4 tháng ngắn ngủi của nhiệm kỳ Bộ trường quả đã phát huy được tác dụng trong một thời gian dài. Cả đến hai thuật ngữ Phổ thông và Chuyên khoa, ông dùng cho hai bậc học, mà chúng tôi là người quen dùng nó suốt mấy chục năm trên ghế nhà trường cũng chính là do ông đặt ra.
Tôi nghĩ đến Hoàng Xuân Hãn trong những ước ao, tâm nguyện của một trí thức đối với lịch sử dân tộc và văn hóa dân tộc (tôi chưa có ý định nói đến trong bài này về Hoàng Xuân Hãn ở tư cách nhà sử học - mà tài liệu Thống nhất thời xưa, ông viết tại Paris, tháng 10 năm 1976 ngay sau Đại thắng mùa Xuân - 1975, khiến tôi không thể không ngẫm nghĩ: Ai là người có thể viết hay và gọn được như ông, kể cả “kịp thời” như ông, về một vấn đề lớn như thế và bức xúc đến thế trong lịch sử dân tộc?). Ông đã là một trong những gương mặt tiêu biểu và sáng giá của người trí thức trước yêu cầu bảo tồn và phát triển nền văn hóa dân tộc, và giữ cho được bản sắc dân tộc của văn hóa - vấn đề không chỉ nổi lên hôm nay mà luôn luôn là sự thôi thúc, và rất nhiều phen bị đe dọa, trong suốt trường kỳ lịch sử. Cuộc đời ông, công việc mà ông theo đuổi là minh chứng cho điều ấy.
Sự nghiệp bảo tồn và phát triển nền văn hóa của đất nước thì lớn lao - đó không phải là chuyện của một người, dầu là một trí thức lớn được nhiều người ngưỡng mộ. Đóng góp của cá nhân cho văn hóa dân tộc, dẫu có lớn đến mấy cũng vẫn cứ là nhỏ - trong những tự đánh giá về mình. Hoàng Xuân Hãn thường không nói, hoặc nói rất khiêm nhường về mình. Ông chỉ làm việc trong âm thầm, và một mình. Âm thầm đọc. Âm thầm viết. Viết để in hoặc viết rồi để đấy. Viết cho công chúng hẹp, và một đôi khi cho công chúng rộng”. Nhưng từ con người ông và các trang viết của ông có một sự thắp sáng và có khả năng tỏa sáng. Ánh sáng đó đến từ kho tàng văn hóa dân tộc, và đến với kho tàng văn hóa dân tộc. Là người mà phần lớn cuộc đời phải sống ở ngoài nước, nhưng con người ông, sự nghiệp ông lại dành trọn vẹn cho quê nhà, và chỉ mong có ích cho quê nhà.
Những năm cuối đời ông thường gửi bài cho Hồng Lĩnh là tạp chí văn nghệ của tỉnh Hà Tĩnh - đó cũng là hiện tượng không ngẫu nhiên.
Cái tên Hồng Lĩnh đối với ông, không chỉ gợi nhớ cảnh quan quê nhà, mà còn là biểu tượng của đất nước:
Đã hay bốn bể là nhà
Lam Hồng ta mới thật là quê hương
Tôi, lớp hậu sinh, còn ít kinh nghiệm sống và từng trải, vinh dự có cùng một quê hương với ông, cũng phần nào thấu cảm được điều đó.
Cuối cùng tôi muốn trở lại hai chữ từ và với - từ kho tàng văn hóa dân tộc và với kho tàng văn hóa dân tộc - ở đoạn văn vừa nói trên. Bởi lẽ không dễ ai cũng biết chọn cho mình một điểm xuất phát đúng, và với một tư thế thủy chung như nhất về con đường được chọn. Để cuối cùng, vẫn với nền văn hóa dân tộc mà ông vô cùng yêu mến và gắn bó ấy, là mục tiêu, là cái đích mà ông đã đạt được một cách rực rỡ, trong âm thầm, và cũng có thể có phần quạnh quẽ, ở tuổi ngót 90 của cuộc đời mình.
Tôi lại có dịp trở lại cùng chủ đề về ông nhân bộ sách ba tập La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn vừa mới in xong, với hạnh phúc thêm một lần đọc ông và được trọn vẹn “chiêm ngưỡng” chân dung ông.
Bộ sách hơn 4000 trang khổ lớn (16x24) La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn quả là bộ sách quý, nếu không nói là quý nhất, ấn hành lần lượt từ giữa đến cuối năm 1998, thời điểm gấp rút kết thúc thế kỷ XX. Bộ sách của một danh nhân, và về một danh nhân là Hoàng Xuân Hãn. Tôi chọn chữ danh nhân, với sự cân nhắc theo ý riêng, sau khi đã tham khảo ý kiến của nhiều người, trong đó có những học giả tên tuổi; những nhà hoạt động văn hóa, xã hội nổi tiếng; những “nhân chứng", có cùng hành trình với La Sơn Yên Hồ suốt thế kỷ này.
Tôi đã chọn đọc Phần thứ nhất - Nhân chứng ở tập 1, 1564 trang trước khi thâm nhập vào toàn bộ bộ sách, để có dịp kiểm chứng lại sự đánh giá trên, đồng thời nâng cao thêm lòng kính trọng và ngưỡng mộ Hoàng Xuân Hãn, Phần Nhân chứng gồm 59 bài của 59 tác giả đặt ở phần đầu bộ sách, có bài tôi không chỉ đọc một lần. Đọc rồi bâng khuâng trong không ít suy nghĩ; vì qua đó, tôi càng có dịp cảm nhận, một cách thật khách quan, không chút cảm tính, không chỉ một Sự nghiệp mà còn là một Chân dung, một Con người.
Đã có nhiều cuốn sách, nhiều bộ sách về các học giả đương đại; nhưng theo tôi, còn ít có, hoặc chưa có bộ sách nào thực hiện được trọn vẹn cả hai yêu cầu Văn và Người, cả Sự nghiệp và Chân dung như La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn.
59 “nhân chứng” góp phần soi rọi chân dung và sự nghiệp Hoàng Xuân Hãn trên nhiều cách nhìn, ở nhiều tư cách khác nhau. Tư cách những người nghiên cứu, những học giả, trên nhiều lĩnh vực khoa học xã hội, nhân văn và tự nhiên, như sử học, khảo cổ học, văn học, Hán Nôm học, ngôn ngữ học, giáo dục học, văn hóa học, nghệ thuật học, âm nhạc học, địa lý nhân văn, địa lý lịch sử, rồi y học (cả Tây và Đông), nông học, toán học, khoa học xây dựng, khoa học nguyên tử... Rồi nhà văn, nhà thơ, đạo diễn sân khấu và điện ảnh... Ít có, thậm chí chưa có bộ sách nào hội được nhiều tên tuổi đại diện cho nhiều lĩnh vực chuyên môn đến thế, trong đó có không ít là những học giả đầu ngành, là những “nhân chứng” của thời đại, là người cùng thời với tác giả như Nguyễn Xiển, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Lân, Nguyễn Mạnh Tường, Tạ Quang Bửu... Cạnh đó là những người ở chức trách cao của xã hội, từ Thủ tướng Phạm Văn Đồng, các Bộ trưởng đến người làm công tác biên tập sách báo và giảng dạy... Tôi “đọc” thấy trong rất đa diện các gương mặt của “nhân chứng” không ai không một tấm lòng kính trọng, ngưỡng mộ và cả biết ơn La Sơn Yên Hồ. Kính trọng - khỏi phải nói điều này, bởi ông được kính trọng bởi những người rất đáng kính trọng. Nhưng còn biết ơn? Đó là điều rồi cũng thành dễ hiểu trong công cuộc đổi mới và trong kết thúc của thế kỷ. Tôi - một người nghiên cứu văn học, thuộc thế hệ rất hậu sinh của ông, vẫn còn quá trẻ để được là học trò của ông, cũng rất sung sướng cảm nhận được lòng biết ơn đó, tuy có muộn so với nhiều bậc đàn anh, nhưng do muộn nên lại cảm thấy rất thấm thía và yên tâm, bởi sự định vị của rất nhiều người đi trước mình. Lòng biết ơn đối với một bậc thầy lớn trong các bậc thầy về nhiều phương diện của nhân cách, tri thức và kinh nghiệm nghề nghiệp.

Qua tập bộ sách lớn thấy thật rõ nét Hoàng Xuân Hãn là người trong thầm lặng mà thật gây ấn tượng với các vị trí số một hoặc khởi đầu. Học trò cực giỏi trên nhiều bộ môn, nhiều cấp học để trở thành “tấm gương soi” một thời cho cả mấy thế hệ học sinh, sinh viên. Trở lại Pháp lấy bằng thạc sĩ Toán, sau khi có cử nhân Toán và có tiếp kỹ sư cầu đường, để về nước là thầy trường Bảo hộ, chứ dứt khoát không vào làng Tây rất hứa hẹn một tương lai vinh thân phì gia. Có tư cách học giả ngay khi là sinh viên trường Bách khoa ở Pháp trong việc chuẩn bị soạn thảo Danh từ khoa học, bộ sách khởi đầu, rồi sẽ là nền tảng cho sự triển khai nhiều việc lớn của nền giáo dục phổ thông và đại học Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Thầy giáo giảng rất tuyệt vời về môn Toán ở trường Bưởi cũng là người từ rất sớm đã có hướng mở sự quan tâm sang nhiều lĩnh vực khoa học tự nhiên, xã hội và nhân văn, để rồi, vẫn ông, ở vị trí số một không ai thay thế được. Bốn tháng ở ghế Bộ trưởng để có Chương trình Trung học mang tên Hoàng Xuân Hãn, và hướng phân ban: Phổ thông và chuyên khoa cho bậc trung học, mà cho đến nay tính hợp lý của nó, chúng ta đang chứng nghiệm sau bao nhiêu cải cách, xáo trộn. Người có công chuẩn bị cho một nền đại học Việt Nam dạy bằng tiếng Việt cũng là người đầu tiên đề ra phương pháp thanh toán nạn mù chữ bằng lối nói vẫn và dân gian mà nam phụ lão ấu dân ta một thời ai ai cũng có thể áp dụng. Sớm trở lại tư cách học giả, người trí thức, nhà văn hóa dân tộc là con đường ông đã có hướng chuẩn bị “thuận” với hoàn cảnh riêng của mình, sau bốn tháng ở ghế Bộ trưởng và sau khi tham dự Hội nghị Đà lạt, vào đầu năm 1946. Ở lại Hà Nội trong thế “kẹt”; và ứng xử theo chính chữ “trùm chăn” do ông đặt ra và sau này ta thường quen dùng. Lánh qua Paris, rồi ở lại Pháp cho đến lúc qua đời - ngót 50 năm vẫn một cốt cách ứng xử, thủy chung với con đường mình đã chọn. Đạt đỉnh cao của khoa học hiện đại, của văn hóa phương Tây mà tận trong thâm sâu vẫn là người của phương Đông trong kiến thức, trong đạo lý và lối sống; và là người của Việt Nam trong cái vốn rất giàu có về văn hóa dân tộc và lòng yêu văn Nôm dân tộc. Không chỉ với kết quả của lao động mà còn vì toàn bộ cuộc sống và cách sống của bản thân mà nhận được sự kính trọng của tất cả cộng đồng người Việt ở trong nước và nước ngoài. Lao động khoa học mà ông chọn lựa, đó là một thứ lao động rất khổ công, kiên trì và thầm lặng, trên văn bản, chủ yếu với các văn bản. Giữa bao nhiêu dạng hoạt động mà ông có thể chọn, ông lại chỉ chọn thứ lao động miệt mài và đơn độc ấy - hẳn chẳng có lý do nào khác vì một niềm yêu mến thiết tha vốn văn hóa dân tộc, mà do xa quê nên ông càng nặng lòng yêu. Là trí thức lớn, là học giả chân chính nên trung thực khoa học là phẩm chất ông quan tâm hàng đầu và giữ trọn suốt đời để không vướng gợn bất cứ tì vết nào trong nhân cách và đạo đức, khiến người đời hỗ nghi hoặc cười chê. Cho đến khi gần qua đời ông vẫn chỉ viết tiếng Việt - tiếng mẹ đẻ, dẫu từ rất sớm ông đã học ở Pháp, và hơn nửa cuộc đời sống trên đất Pháp, Và trong kho tiếng Việt đó ông vẫn thường để lẫn một cách rất thân thiết và trìu mến tiếng địa phương Hà Tĩnh cùng hình ảnh sông Lam - núi Hồng tượng trưng cho đất nước, suốt đời ông không quên.
Từ khoảng lùi cuối thế kỷ và trên tầm cao công cuộc đổi mới mà nhìn, càng thấy rõ sự nhạy cảm và sáng suốt trong những chọn lựa, tìm đường của Hoàng Xuân Hãn. Con đường đó, từ rất sớm đã được định hướng trong bước chân người thanh niên dặm trường sang phương Tây học toán, học cầu đường, và sau này học khoa học nguyên tử; thế nhưng lúc ở nhà, hoặc mỗi lúc về nhà, lại là một bộ hành say sưa, không chút nản mỏi trên con đường hành hương từ Đức Thọ, quê của La Sơn Phu Tử xuôi Can Lộc, Nghi Xuân để tìm kiếm trong dân gian và trong các dòng tộc họ Nguyễn những văn bản Nôm cổ, trong đó có Truyện Kiều. Cũng chính là người đã đi khắp các đường phố Hà Nội để cứu vớt và nhặt nhạnh những sách tàn giấy cũ trong và sau cơn binh lửa tháng 12 năm 1946.