Đặng Thai Mai và tầm ảnh hưởng đối với thế hệ trí thức Việt Nam (Phần 1)

Không chỉ thế hệ chúng tôi mà còn là nhiều thế hệ đàn anh khả kính của tôi. Bởi tiếp xúc với họ, tôi thấy khi nhắc đến ông, ai cũng trân trọng gọi ông là Thầy. 
imagedaidoanketvn-images-upload-vanmt-03192021-gs-mai-2-1737627916.jpg
GS Đặng Thai Mai (1902-1984). Ảnh: Internet

Còn thế hệ tôi - lớp sinh viên Khóa I Đại học Tổng hợp (1956-1959), chúng tôi đã được nghe ông giảng ở nhiều môn: Phan Bội Châu và Thơ văn cách mạng Việt Nam thời cận đại; Văn học Trung Quốc cận, hiện đại với phụ giảng là PGS Trương Chính. Nghe tên ông từ nhỏ, đến tuổi 18 mới được tiếp xúc với ông, thấy không ngoài tưởng tượng là mấy: sự nghiêm trang trong ăn mặc, nghiêm túc và uyên thâm trong nội dung và phương thức giảng, một khoảng cách cần thiết dành cho sự kính trọng. 

Sau ba năm ở bậc Đại học, cuối 1959 tôi được phân công về Viện Văn học, lúc này thuộc Ủy ban Khoa học Nhà nước. Về một mình. Cũng chưa từng nghe có một Viện Văn học như thế. Bởi đến giữa 1959 Viện Văn học mới ra đời, sau khi Ban Văn Sử Địa giải thể. Và hai bậc thầy của tôi ở Đại học được cử làm Viện trưởng và Viện phó - đó là Đặng Thai Mai và Hoài Thanh. Từ là thầy, chuyển sang thủ trưởng - cả hai, đối với tôi đều không lạ. 

Từ đây, cuối 1959 tôi trở thành nhân viên tập sự, người học việc, rồi trợ lý nghiên cứu trẻ nhất của Viện. Cũng từ đây tôi có một ngôi nhà chung, một gia đình lớn ở địa chỉ 20 Lý Thái Tổ. Một gian ở 11 mét vuông trong một dãy nhà tập thể khép nép ở phía sau - đó là nơi gia đình nhỏ bốn người của tôi tá túc cho đến đầu thập niên 1980... 

Trong hai vị Thủ trưởng, tôi được tiếp xúc nhiều hơn với Hoài Thanh, vì ông phụ trách văn học Việt Nam hiện đại, và là Thư ký tòa soạn (tức Tổng biên tập) tập san Nghiên cứu văn học, sau đổi là Tạp chí Văn học - nơi tôi được giao chữa bông và đi nhà in. Còn Đặng Thai Mai phụ trách văn học cổ điển, và ở cấp trưởng lo chung mọi việc. Nói là lo chung, nhưng thực chất việc quản lý hành chính, tổ chức, nhân sự, đoàn thể, ông đều “khoán” hết cho Hoài Thanh với một yên tâm tuyệt đối. Với Hoài Thanh, tôi được tiếp xúc và làm việc dưới quyền ông từ 1960 đến 1969 là năm ông chuyển sang Hội Nhà văn. Còn Đặng Thai Mai - cho đến năm 1975 là năm ông nghỉ hưu ở tuổi 73; và thỉnh thoảng còn được thăm ông ở phố Nguyễn Huy Tự cho đến 1984 là năm ông qua đời. 

Với tôi, Đặng Thai Mai trước hết là một học giả uyên thâm trên nhiều lĩnh vực Đông - Tây, kim - cổ. Tuổi học sinh Cấp 2, tôi đã được làm quen với Thi nhân Việt Nam, Nhà văn hiện đại, Kinh Thi Việt Nam và Văn học khái luận... Về sau, khi đi vào công việc nghiên cứu tôi mới có hoàn cảnh để đánh giá - đây là những bộ sách “kinh điển” thuộc các lĩnh vực nghiên cứu, lý luận, phê bình được xếp vào ô khoa học văn chương, bên cạnh nghệ thuật văn chương; cả hai làm nên diện mạo hiện đại cho văn chương học thuật Việt Nam, sau 30 năm chuẩn bị mà đến với mùa gặt đầu tiên rất ngoạn mục là mùa gặt 1930-1945. Cả hai, phải có cả hai - mới có thể nói đến sự hoàn thiện diện mạo hiện đại của nó; trong đó, nếu khu vực nghệ thuật và chương trình xuất hiện sớm hơn thì khu vực khoa học văn chương tuy muộn, nhưng vẫn kịp có gương mặt hoàn chỉnh của nó trong thời kỳ 1941-1945, mà những bộ sách tôi ghi ở trên của Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Trương Tửu, Đặng Thai Mai là những kết tinh trọn vẹn. 

nhung-dieu-it-biet-ve-giao-su-nha-van-hoa-lon-dang-thai-mai-n4-1737627916.jpg
Vợ chồng GS Đặng Thai Mai và các con. Ảnh: Internet

Đặng Thai Mai là một tên tuổi tiêu biểu thuộc thế hệ Vàng của văn chương - học thuật Việt Nam hiện đại. Không chỉ có tư thế một học giả với kiến thức rộng và uyên thâm, một bậc thầy của nhiều thế hệ trò, Đặng Thai Mai còn là người giữ nhiều cương vị cao trong hệ thống chính quyền Dân chủ Cộng hòa. Là Bộ trưởng Bộ Giáo dục trong Chính phủ Hồ Chí Minh ngay sau ngày cách mạng thành công. Là Chủ tịch Ủy ban hành chính Thanh Hóa khi cuộc kháng chiến mới bắt đầu. Là Chủ tịch đầu tiên của Hội Văn hóa Việt Nam thành lập năm 1948, và sau đó là Chủ tịch Hội văn nghệ Việt Nam - gần như suốt đời, cho đến 1975. Không kể ông có ba con rể đều là cấp tướng trong Quân đội, trong đó có một vị là Công thần được toàn dân yêu mến và ngưỡng mộ. 

Từ các vị trí cao như thế, đồng thời kiêm nhiệm Viện trưởng, các thế hệ công nhân viên Viện Văn học bao giờ cũng nhìn ông với một cung kính đặc biệt. Nhà ở phố Nguyễn Huy Tự, hàng ngày hoặc hàng tuần ông đến Viện trên chiếc Motskovit màu đen, loại xe “xoàng” nhất trong các loại xe dành cho cán bộ cấp cao - như Volga hoặc Lada, với người lái xe là ông Cần. Trong khi các thủ trưởng khác như Hoài Thanh, đi xe đạp, còn Hoàng Trung Thông thì đi bộ. Ở một khoảng cách cao vời như thế nên lớp cán bộ trẻ như chúng tôi ít khi được gần ông, và cũng không chắc ông đã biết tên. Chẳng riêng ông, mà cả Hoàng Trung Thông, Hoàng Trinh - hai đời Viện trưởng sau ông, khó nói là các vị biết được hết tên tuổi tất cả cán bộ trong Viện, chỉ khoảng trên 50 người. Cả một thời lãnh đạo đều như thế, và nơi đâu cũng thế! 

Nhưng không phải vì thế mà chúng tôi xa lạ với các vị. Trái lại, vẫn rất cung kính, bởi nhìn vào cung cách lãnh đạo, quản lý, và các mối quan hệ giữa các vị thì phải nói là rất đáng nêu gương. Chẳng hạn cách ứng xử của Đặng Thai Mai đối với Hoàng Ngọc Phách, Hoài Thanh, Cao Xuân Huy, Phạm Thiều, Vũ Ngọc Phan luôn luôn là một sự tương kính, tương thân. Tin cậy tuyệt đối ở Hoài Thanh nên gần như toàn bộ công việc nội bộ của Viện ông giao cho Hoài Thanh. Tin cậy sự uyên bác của Cao Xuân Huy - người hơn ông hai tuổi, nên những bản thảo nào đã giao cho Cao Xuân Huy khảo duyệt ông không cần xem lại. Tình bạn với Phạm Thiều - người kém ông hai tuổi, gần như vẫn giữ nguyên như hồi cùng học Quốc học Vinh, khi Phạm Thiều thôi Đại sứ Tiệp Khắc về tổ Hán Nôm của Viện. Những họp hành, hẹp hoặc rộng do ông chủ trì không bao giờ có to tiếng hoặc cãi cọ.

GS. Phong Lê