
Nguyễn Công Hoan bắt đầu được chú ý từ những truyện trong tập Truyện thế gian của Tản Đà Thư Cục năm 1922; rồi Kiếp hồng nhan, năm 1923; để trở nên nổi tiếng với những chuyện đời trong chuyên mục “Xã hội ba đào ký”, thời An Nam tạp chí cũng của Tản Đà đầu những năm ba mươi. Và đến hôm nay, sau bao nhiêu biến thiên xã hội, ông vẫn tiếp tục là nhà văn thân quen của nhiều thế hệ bạn đọc, trong số đó không ít người đã từng qua một tuổi trẻ hoặc tuổi học đường sớm biết đến Nguyễn Công Hoan, qua Bước đường cùng và các truyện ngắn được chọn lọc trong chương trình văn học ở nhà trường.
Cố nhiên ở mọi thời kỳ, sự quan tâm của bạn đọc đối với Nguyễn Công Hoan là có khác nhau. Nguyễn Công Hoan xuất hiện với một bút pháp lạ, một cách nhìn lạ, một giọng điệu lạ, hài và bi, cười cợt và nghiêm trang, đùa mà tỉnh táo, đã được báo hiệu ngay từ Kiếp hồng nhan (1923). Rồi Nguyễn Công Hoan với truyện ngắn và truyện dài, dồn dập và xen kẽ, chuyển dịch qua bao xu hướng nghệ thuật trong những năm ba mươi. Nhà văn muốn tỏ ra trung thành với chủ nghĩa hiện thực trào lộng trong truyện ngắn lại rất nghiêm trang, mực thước trong Tấm lòng vàng, Cô làm công...
Chủ nghĩa lãng mạn tưởng như xa lạ với Nguyễn Công Hoan, khi nhà văn cố tình trở về với các khuôn mẫu cổ điển, để chống lại Đoạn tuyệt của Nhất Linh, trong Cô giáo Minh, lại là người đẫm ướt trữ tình và nước mắt lãng mạn trong Tắt lửa lòng và Lá ngọc cành vàng. Thanh đạm u trầm trong một khí hậu hoài cổ nhằm dẫn dắt con người vào một thời xưa, trong lúc Bước đường cùng lại rất quyết liệt phanh phui, lật tẩy hiện tại - sách bị cấm mà thành danh to, năm ngàn bản hết veo và được in đi in lại nhiều lần...
Nguyễn Công Hoan, tóm lại, đó là người viết dường như muốn có một mục tiêu để trung thành, để chung thủy, nhưng lại nhiều đổi thay, chuyển dịch và không ít giọng điệu. Có phải vậy chăng cùng lúc có ở trong ông vừa khách quan vừa chủ quan, vừa mới vừa cũ, vừa hoài cổ vừa cách tân, vừa hiện thực vừa lãng mạn, vừa cổ điển vừa tự nhiên và cả tự nhiên chủ nghĩa... Vậy là, phải chăng về cái gọi là “phức tạp”, qua con mắt người đương thời và hậu thế, thì xem ra Nguyễn Công Hoan cũng có mặt nổi danh không kém Nguyễn Tuân.
Nhưng rút lại thì cái lớn, cái duyên và có thể là cả cái may nữa, của Nguyễn Công Hoan là ở đâu và lúc nào ông cũng được quan tâm. Có thể nói ông là nhà văn chưa bao giờ bị quên. Ông là người thường xuyên được nhắc nhở. Quả là trong làng văn Việt Nam hiện đại, người có vị trí như Nguyễn Công Hoan không phải thật quá hiếm hoi. Nhưng có người danh đang như cồn, bỗng bị quên ngay. Có người rất thực tài nhưng chịu rất nhiều thăng trầm.
Có người chịu một số phận âm thầm thật lâu rồi mới sáng sủa dần lên. Còn ông, nhà văn Nguyễn Công Hoan thì lúc nào cũng là người hiện diện cùng độc giả. Tham gia cách mạng, hoạt động ở nhiều cương vị, cho đến hết cuộc kháng chiến chống Pháp, trở về hòa bình, ông là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam đầu tiên từ khi có Hội, năm 1957, cương vị ấy ở ông gợi nhớ chức danh Tổng thư ký Hội Văn nghệ của Nguyễn Tuân trước đó gần một thập niên trong Đại hội lần thứ nhất Hội Văn nghệ Việt Nam. Những chọn lựa của lịch sử và nghề nghiệp quả thật là tinh.
Nghề và nghiệp, danh và thực, quả đã tìm được sự hội tụ ở những người viết có bản lĩnh, có chân tài. Qua hai hiện tượng trên, ở hai cương vị đại diện: một cho chủ nghĩa lãng mạn, một cho chủ nghĩa hiện thực, tôi thấy thật thú vị về sự gặp gỡ của hai phong cách lớn trong văn học Việt Nam hiện đại.