Như vậy xem ra nhân vật là cá biệt, là không phổ biến - nó chỉ có thể là đại diện cho một số ít người. Nhưng tác giả lại vẫn tỏ ra rất tin vào tác động xã hội rộng ra khỏi giới hạn của một tầng lớp, nhờ vào căn tính nhân loại của người đời: “Phàm ở đời những điều gì có thể chuyển động được một người thì tất chuyển động được nhiều người, vì lòng nhân loại có những dây cảm giác giống nhau, duy chỉ nhiều ít khác nhau và cách cảm xúc hơn hay kém”.
Ta biết đẩy cũng từng là tuyên ngôn sáng tác của những nhà văn theo chủ nghĩa lãng mạn phương Tây: Ôi, sao lại nghĩ tôi không phải là anh!
Diễn biến tâm lý nhân vật và kết thúc Tố Tâm là sự tuân thủ đạo lý phong kiến, là chấp nhận chế độ đại gia đình. Nhưng hành vi và hoạt động của nhân vật như viết thư và làm thơ cho nhau; đi chơi bãi biển Đồ Sơn; về quê bắt cào cào, châu chấu; cùng nhau lang thang ở Ngã Tư Sở, ấp Thái Hà, đền Voi Phục, Hồ Tây; chuyện trò tình tự với nhau trong phòng riêng... thì lại quá mới, có dễ còn là rất hiếm diễn ra trong sinh hoạt của nam nữ thanh niên lúc đương thời, thậm chí đến vài chục năm sau, đâu dễ đã có nhiều người theo được. Và như thế là cô gái mới Tố Tâm đã đi trước thời đại rất xa! Nói như nhà phê bình Thiếu Sơn: “Một người con gái như thế tức là tiêu biểu cho hạng gái văn minh, chỉ ở những xã hội văn minh mới có? (Còn ở ta lúc ấy không biết đã đến cái trình độ “văn minh” ấy chưa?). Cùng với Đạm Thủy, cô đã thoát ra khỏi mẫu hình “giai nhân - tài tử” trong văn học cổ để trở thành biểu tượng cho những cặp tình nhân kiểu mới như một sản phẩm của Âu hóa. Sống với sự sống tinh thần, tình cảm và tư tưởng, - chứ không phải sống cái sống vật chất, lo lắng hoặc lam lũ - Tố Tâm không chỉ dừng lại ở hình ảnh một người yêu lý tưởng, mà theo suy diễn của Thiếu Sơn, nàng còn hứa hẹn đi xa hơn: “Tố Tâm nếu có thật, và nếu không phải vì thất tình mà chết, tôi dám chắc sẽ là một người hăng hái nhiệt thành mà đem phấn son để tô điểm sơn hà hoặc đem gan ốc mà đền bồi nợ nước”. Phải nói Tố Tâm xứng đáng là bậc tiền bối cho tất cả những Loan, Mai, Nhung, Tuyết trong văn chương Tự Lực văn đoàn sau này. Thế nhưng, có điều thú vị là cái mới ở Tố Tâm vẫn là cái mới trên nền của truyền thống cũ, đạo lý cũ. Trong vẻ đẹp và cách thức trang điểm sinh hoạt như chùm khăn tua đen, đi xe nhà bánh sắt (chứ không phải bánh cao su), trong cư xử với kẻ thân người sơ, Tố Tâm vẫn là người của nền nếp cũ. Không vênh vang hợm hĩnh, không kệch cỡm, lố lăng; không tha hóa, mất gốc, nhân vật của Tố Tâm không phải kiểu dáng những “cô Chiêu Nhì”, những “ông Tây An Nam”, những “cô Kếu - gái tân thời”... vốn sớm trở thành đối tượng thương hại hoặc phê phán trong văn học suốt cả hai thập niên hai mươi và ba mươi. Thành ra dư luận khen, chê Tố Tâm quả là sôi nổi và trái ngược, nhưng dẫu có đồng tình hoặc phản đối, cả hai phía khen chê đều vẫn dành phần thông cảm và thiện cảm cho nhân vật. Cuối cùng thì tác phẩm càng tạo được một trường lực hấp dẫn rộng rãi trong đời sống thanh niên trí thức thành thị. Đó cũng là một nét đặc sắc trong thành tựu của Tố Tâm.
Có điều, cả sự sôi nổi về phía độc giả, và sự e dè của giới phê bình, dẫu khen hoặc chê, hoặc phân vân giữa khen và chê, cả hai đều vẫn cùng nhau tồn tại để nghe ngóng và thể nghiệm dần dần sự thắng thua trong biến diễn của thời cuộc và theo tâm thế xã hội. Những chuyển động của đời sống theo gia tốc của lịch sử hướng về sự phát triển của đời sống đô thị, sự phát triển của giai tầng tiểu tư sản, sự hình thành và gia tăng các quan hệ tư sản sẽ là cơ sở cho sự thất thế, rồi thất bại của nền luân lý phong kiến và chế độ đại gia đình - đó chính là xu thế, là hậu thuẫn “bất khả kháng” cho sự ra đời của Tố Tâm, rồi sự thắng lợi của Tố Tâm, để khép lại sự phân đôi trong dư luận.
Nhưng nói về ảnh hưởng của Tố Tâm, nói đến sự sôi nổi trong dư luận như trên lại cũng vẫn phải xác định thêm lần nữa các giới hạn của nó, trong đời sống thành thị, ở một bộ phận nhỏ thanh niên có học và ham đọc. Nhưng do là bộ phận trí thức có học ở đời sống đô thị nên họ lại đã có thể qua hệ thống học đường, qua đời sống báo chí, qua dư luận xã hội, tóm lại, qua vai trò của đời sống văn hóa thành thị mà gây nên một dấu ấn thật sâu đậm trên dòng chảy của thời gian theo gia tốc lịch sử.
Trở lại câu chuyện tình của đôi thanh niên Tố Tâm - Đạm Thủy với dấu ấn lãng mạn hay say đắm của nó làm nên đặc sắc của tiểu thuyết Tố Tâm.
Rõ ràng không phải đến Tố Tâm mới có bi kịch tình yêu. Có biết bao số phận còn bi thảm hơn, những tính cách còn quyết liệt hơn như trong văn học dân gian và văn học cổ điển, cũng như trong Gò cô Mít của chính tác giả. Trong Gò cô Mít, là một truyện ngắn, Hoàng Ngọc Phách cũng kể một chuyện tình. Đó là mối tình của một đồi thanh niên nam nữ nông thôn. Do thuộc vào hai đẳng cấp khác nhau, lại do sự hám danh và tham lợi của kẻ giàu là phía gia đình cô gái, nên mối tình đó không thành, và đi tới kết thúc là cái chết của cả hai nhân vật. Cả hai (chứ không phải chỉ một như trong Tố Tâm) quyết đi tìm hạnh phúc là được sống bên nhau ở thế giới bên kia; cả hai cùng quyết đi tới cái chết như là một sự thách thức quyết liệt với đời...
Xem ra những tính cách và số phận như thế lúc nào và nơi nào cũng có, không phải chỉ có riêng trong Tố Tâm. Nhưng phải nói là trước Tố Tâm, trong văn học Việt Nam chưa có tác phẩm nào có được tố chất mới để gây men - cái tố chất là biểu hiện, là sản phẩm của một trào lưu tư tưởng mới: trào lưu lãng mạn - nên chưa thể vươn lên tầm một bi kịch mới của thời đại. Phải đến Tố Tâm, tố chất ấy mới xuất hiện để mang lại cho cuốn tiểu thuyết một âm hưởng mới - âm hưởng hiện đại.