Đặng Thai Mai và tầm ảnh hưởng đối với thế hệ trí thức Việt Nam (Phần 2 và hết)

Có thể hình dung Viện Văn học như một gia đình êm ấm, do có một vị gia trường nhiều quyền uy, nhưng chưa bao giờ phải đụng đến quyền. 
screenshot-1-1737644027.png
GS Đặng Thai Mai từng giữ các chức vụ quan trọng như Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Viện trưởng đầu tiên của Viện Văn học Việt Nam. Ảnh: Dân Việt

Cùng Hoài Thanh lãnh đạo Viện đến năm 1969 - một “cặp đôi hoàn hảo” tôi muốn nói như thế, bởi sự đồng hành 10 năm ở Viện, và còn dài hơn thế, là ở Hội Văn nghệ Việt Nam - 51 Trần Hưng Đạo (bây giờ Hội đó mang một cái tên rất rườm rà: Ủy ban toàn quốc liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam), một người là Chủ tịch Hội, một người là Tổng thư ký Hội. Không nói còn nhiều sự đồng hành khác trong chuyên môn, học thuật. Cả hai đều là chuyên gia - rất hiểu và rất yêu một bậc tiền bối đồng hương là Phan Bội Châu, trong tư cách là Người yêu nước và nhà thơ xứ Nghệ lớn nhất đầu thế kỷ. Một người viết Văn thơ Phan Bội Châu, năm 1957 trước khi về Viện. Một người viết truyện danh nhân Phan Bội Châu, năm 1978 sau khi nghỉ hưu. Trong kháng chiến chống Pháp, một người viết Giảng văn “Chinh phụ ngâm”, một người viết Nói chuyện thơ kháng chiến; một người viết Chủ nghĩa nhân văn dưới thời kỳ văn hóa Phục hưng, một người viết Quyền sống con người trong “Truyện Kiều”. Hơn Hoài Thanh 7 tuổi nhưng Đặng Thai Mai lại là người viết và đọc Điếu văn cho Hoài Thanh, hai năm trước khi qua đời. 

Có thể nói thêm một ít đối ứng về văn phong. Đây là hai bậc thầy không chỉ trên nhiều phương diện của cuộc sống và nghề nghiệp mà cả về văn phong. Được đọc ở tuổi học trò, rồi được học ở Đại học, rồi được nghiền ngẫm chí thú sau khi vào nghề, điều may mắn cho tôi là được tiếp cận với hai bậc thầy rất đặc sắc về văn phong. Đâu phải chỉ sáng tác mới cần đến văn! Chính nghiên cứu, phê bình lại càng cần đến văn, cần đến một thâm hậu về trí tuệ, một tinh tế trong cảm xúc, và một cân nhắc rất kỹ lưỡng trên từng câu văn, từng chữ dùng cho đến các dấu chấm, phẩy...  với một cách xử lý đặc thù ở từng người, khiến chỉ cần đọc văn cũng đủ biết người đó là ai. Không chờ đến khi về Viện, tôi đã từng thuộc lòng nhiều đoạn văn của Hoài Thanh nơi chương viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều trong Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam; và của Đặng Thai Mai trong Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX. Còn trên Tạp chí văn học thì bất cứ bài viết nào của hai vị tôi cũng đều có hạnh phúc được nhấm nháp, hoặc nghiền ngẫm trong tư cách một người đọc đầu tiên trên các bông in, trước khi Tạp chí ra đời; như các bài về Truyện nhà kỵ sĩ Don Quijote, về Shakespeare; về Hồ Chí Minh và Tố Hữu... 

Sau khi Hoài Thanh chuyển sang Hội Nhà văn, từ 1970 đến 1975 Đặng Thai Mai có ba cấp phó là Hoàng Trinh, Vũ Đức Phúc, Nguyễn Minh Tấn, vào lúc Viện Văn học trả lại chức năng phê bình cho Hội Nhà văn thuộc Đảng đoàn văn hóa, văn nghệ, để tập trung cho công tác nghiên cứu và viết lịch sử văn học. Lúc này Ông đã vào tuổi 70 nên ít đến Viện. Ba cấp phó có lẽ là hơi đông, và do có tình hình “mất đoàn kết”, tôi không biết việc điều hành của ông có gì trở ngại không; chỉ thấy... hơi bất ngờ việc ông bỏ qua ba cấp phó để mời Hoàng Trung Thông, một nhà thơ đồng hương, vừa là đồ Tây, vừa là đồ Nho xứ Nghệ, đương chức Vụ trưởng Vụ Văn nghệ Ban Tuyên Giáo Trung ương, kém ông 23 tuổi về làm Viện trưởng thay ông, sau năm 1975. 

Là người lãnh đạo cao nhất của Viện Văn học từ 1959 đến 1975, lại vừa là Chủ tịch Hội Văn hóa, rồi Hội Văn nghệ Việt Nam từ 1948 đến 1975, Đặng Thai Mai có một vị trí cao nhất trong giới sáng tác và nghiên cứu văn hóa, văn học, nghệ thuật. Cũng có nghĩa là nếu những thành tựu lớn của sáng tác và nghiên cứu, giảng dạy văn học, và các lĩnh vực khoa học nhân văn và xã hội ở cả ba nơi: Hội Nhà văn, Viện Văn học, và các Khoa Văn Đại học đều có sự đóng góp của ông, thì những “bất cập” và “hạn chế” của nó, ông cũng có phần trách nhiệm. Nếu trong kháng chiến chống Pháp, Hoài Thanh quyết liệt phủ định Thơ mới và Thi nhân Việt Nam, cho rằng “Những câu thơ buồn nản hay vẩn vơ cũng đều là bạn đồng minh của giặc” thì Đặng Thai Mai cũng từng có lúc đánh giá không cao lắm di sản văn học của cha ông: “Ta chưa có một nền văn học cao cấp là vì ta chưa hề có một nền văn học bình dân”. Trong những cuộc đấu tranh tư tưởng lớn như Nhân văn, Giai phẩm, và các “vụ”, “việc” đưa đến “tại nạn nghề nghiệp” cho các đồng nghiệp trong đó có những người rất sáng giá thường qua lại, trò chuyện với ông ít thấy có ông tham gia, nhưng chắc chắn không có nghĩa là ông đứng ngoài. Trong một tổng kết quan trọng về đấu tranh tư tưởng và học thuật hồi cuối thập niên 1950, ông có bài Căn bản vẫn là vấn đề lập trường tư tưởng... để hưởng ứng các văn kiện của Đảng và các bài viết, bài nói của Trường Chinh và Tố Hữu. Trong sách Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX ông viết về Phạm Quỳnh “tiên sinh kính trắng” như là “một người đã đọc khá nhiều sách và đã đem học thức bán rẻ cho bọn thống trị”; là một “nhà học giả có đủ chữ Hán và tiếng Việt để bịp người Tây; và cũng có đủ chữ Tây để lòe người An Nam”. 

nhung-dieu-it-biet-ve-giao-su-nha-van-hoa-lon-dang-thai-mai-n9-1737628012.png
Bác Hồ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng và GS Đặng Thai Mai (ngoài cùng bên trái) trong một lần tiếp khách Quốc tế. Ảnh: Internet

Qua đời năm 1984, ông chưa được hưởng ngọn gió Đổi mới, nhưng trước đó một năm - năm 1983, trong Hồi ký có đoạn ông viết: “Cụ Bùi hồi này (tức Bùi Kỷ) cùng với Trần Trọng Kim và Phạm Quỳnh là ba nhà trí thức cỡ lớn của thủ đô..”. Cũng tương tự như thế là Hoài Thanh, trước khi mất - năm 1982, đã nghĩ lại và nói với con trai trưởng Từ Sơn về giá trị của Thi nhân Việt Nam. 

Trong dàn sáng lập gồm hàng chục tên tuổi sáng giá, Đặng Thai Mai là người lãnh đạo có uy tín cao nhất, bởi ông là hạt nhân của sự đoàn kết và một “sức mạnh tổng hợp”, nhờ đó mà tạo được một vị thế học thuật rộng rãi và tin cậy trong các giới sáng tác, nghiên cứu và giảng dạy không riêng trên miền Bắc; và cũng không riêng trong nước... 

Các công trình, nghiên cứu và dịch thuật của Cao Xuân Huy, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Đức Vân, Hà Văn Đại, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Trần Thanh Mai, Phạm Thiều, Nam Trân, Đỗ Đức Dục, Vũ Đức Phúc, Nam Mộc, Hoàng Trinh, Cao Huy Đỉnh, Nguyễn Đức Đàn, Nguyễn Văn Hoàn... đều có dấu ấn riêng và đóng góp cho một thời đất nước trong chiến tranh và chia cắt. Sau 1975 cho đến 1985 là một bước ngoặt - đấu tranh tư tưởng chuyển sang chống chủ nghĩa bành trướng phía Bắc và chủ nghĩa thực dân mới ở phía Nam - đặt lên vai Viện trưởng Hoàng Trung Thông và Hoàng Trinh. Đời sống chính trị và học thuật gần như chưa lúc nào yên để có thể bắt tay vào bộ lịch sử văn học Việt Nam đã được khởi động khá rầm rộ từ đầu thập niên 1970; để - với nó mà khai thác kho kiến thức giàu có, đủ đầy của Đặng Thai Mai, người xứng đáng là một điểm tựa học thuật lớn, một Tổng chỉ huy (tôi không nói Chủ biên) uy tín nhất. Món nợ ấy, lớp hậu sinh như chúng tôi rồi phải trả bằng nhiều giá... 

Cuối cùng, ở tư cách là người đã có một lịch sử 55 năm công tác ở Viện, tôi rất cảm kích về cuộc Hội thảo mang nhiều kỷ niệm này; cũng như cuộc Hội thảo về Hoàng Trung Thông năm ngoái - nó gợi nhớ bầu không khí Viện vào những năm đầu Đổi mới - từ 1989 đến 1995. Với tôi, đời của một cơ quan từ khi nó mang một cái tên, cũng như đời một con người ai cũng có, cũng cần đến một lịch sử làm điểm tựa. Thời gian rồi sẽ lấp đầy những khoảng trống và đưa hôm nay vào quá khứ; để với nó mà hình thành một lịch sử mới, nối dài mà làm nên cái hậu cho một đời người, hoặc một cộng đồng người. Một cộng đồng, trong hơn nửa thế kỷ qua, lúc nào cũng chỉ trên dưới 60 người, ở một địa chỉ là 20 Lý Thái Tổ - Hà Nội, cùng với các địa chỉ 51 Trần Hưng Đạo, 65 Nguyễn Du và 4 Lý Nam Đế, từ lâu đã trở nên quen thuộc với đông đảo công chúng và các giới sáng tác, nghiên cứu, phê bình văn học - nghệ thuật của Thủ đô và cả nước.

GS. Phong Lê