90 Chân dung văn hóa
Nguyễn Huy Tưởng với hành trình xuyên suốt từ Vũ Như Tô đến Sống mãi với Thủ đô (Phần 3)
Ở Nguyễn Huy Tưởng, chúng ta càng thấy rõ những khắc khoải của nhà văn về nghệ thuật thể hiện ngay từ Vũ Như Tô, năm 1942, và kéo dài cho đến cuối đời, là một khắc khoải rất đáng quý, không dễ ai cũng có.
Nguyễn Huy Tưởng với hành trình xuyên suốt từ Vũ Như Tô đến Sống mãi với Thủ đô (Phần 2)
Nguyễn Huy Tưởng viết xong Vũ Như Tô vào mùa hè 1941. Vở kịch lần đầu được đăng trên tạp chí Tri tân từ số 121 (18-11-1943) đến số 139 (20-4-1944). Đây là thời gian đất nước đang bị dồn tới một tình thế cực kỳ căng thẳng và bi đát.
Nguyễn Huy Tưởng với hành trình xuyên suốt từ Vũ Như Tô đến Sống mãi với Thủ đô (Phần 1)
Sinh năm 1912, mất năm 1960, tính cho đến nay, Nguyễn Huy Tưởng đã đi xa 65 năm, nhưng những vấn đề về ông, về con người và tác phẩm của ông thì vẫn còn đó. Văn xuôi và kịch; chất văn trong kịch và chất kịch trong văn. Các giá trị lịch sử và thời sự. Các vấn đề về đấu tranh giai cấp và cách mạng, và các vấn đề về trí thức và văn hóa dân tộc. Những phong ba thời đại và các bi kịch gia đình. Những động lực thúc đẩy lịch sử và những khát khao sáng tạo của các cá nhân...
Vũ Trọng Phụng – Kẻ châm biếm xã hội và nạn nhân của thời cuộc (Phần 3 và hết)
Kể từ 1989 trở đi Vũ Trọng Phụng đã trở lại vị trí một gương mặt tiêu biểu và xuất sắc trong trào lưu văn học hiện thực nói riêng và văn học hiện đại nói chung.
Vũ Trọng Phụng – Kẻ châm biếm xã hội và nạn nhân của thời cuộc (Phần 2)
Nhìn lại lịch sử đánh giá Vũ Trọng Phụng diễn ra sau 1954, có một thời Vũ Trọng Phụng được bàn luận sôi nổi. Thời có những cuốn sách, những bài giảng, những hội thảo, những tranh luận, những khẳng định Vũ Trọng Phụng ở vị trí cao nhất trong dòng hiện thực.
Vũ Trọng Phụng – Kẻ châm biếm xã hội và nạn nhân của thời cuộc (Phần 1)
Vũ Trọng Phụng – từ nạn nhân của định kiến chính trị đến nhà văn được vinh danh trong nền văn học hiện đại. Một hành trình dài, nhiều tranh cãi và khẳng định.
Thanh Tịnh – Nhà thơ độc tấu giữa đời thực và sân khấu kháng chiến
Thanh Tịnh, trước hết là một nhà Thơ mới, tác giả tập thơ Hận chiến trường (1936) với hai bài Mòn mỏi và Tơ trời với tơ lòng được Hoài Thanh chọn đưa vào Thi nhân Việt Nam cùng với lời bình.
Ngọc Giao, người khỏi bị lãng quên vào cuối thế kỷ (Phần 4 và hết)
Giữa 1989, Nhà xuất bản Văn học ấn hành một Tuyển tập gồm 12 truyện ngắn của Ngọc Giao dưới tên chung Cô gái làng Sơn Hạ, với Lời giới thiệu của Nhà xuất bản khẳng định “hướng viết của dòng hiện thực phê phán những năm 1930-1945” ở Ngọc Giao - cùng “niềm yêu kính của ông với các bậc tiền nhân đi đầu trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược phương Tây”... “Cũng như nhiều nhà văn khác, Ngọc Giao còn bị hạn chế trong những điều kiện lịch sử nhất định nhưng ông vẫn là một trong những tác giả có sức sáng tạo phong phú và đa dạng, góp vào nền văn học hiện đại của chúng ta những trang viết có sức hấp dẫn”. Cuối sách in bài Bạt của Phùng Tất Đắc viết năm 1936, và trang 4 bìa dành đăng ảnh cùng tiểu sử và danh mục sáng tác của ông.
Ngọc Giao, người khỏi bị lãng quên vào cuối thế kỷ (Phần 3)
Từ sau 1954 Ngọc Giao bắt đầu một cuộc sống đầy mặc cảm về sự kỳ thị và quên lãng của người đời. Ông khó tránh phải từ bỏ nghiệp văn. Không riêng Ngọc Giao, một số người viết khác không đi kháng chiến, hoặc trở về nội thành cũng không dễ viết, nhưng ít có ai gác bút đến triệt để như ông.
Ngọc Giao, người khỏi bị lãng quên vào cuối thế kỷ (Phần 2)
Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Ngọc Giao cùng gia đình tản cư lên Nhã Nam, Yên Thế. Ở Yên Thế ông có tham gia làm tờ Bạn dân cho Công an Cao Bắc Lạng chiến khu XII được 3 số. Rồi do hoàn cảnh gia đình, ông phải hồi cư về Thuận Thành, quê nội của ông. Rồi về Hà Nội.
Ngọc Giao, người khỏi bị lãng quên vào cuối thế kỷ (Phần 1)
Tôi tin là những người yêu văn chương ở lứa tuổi tôi hiếm ai không đọc Tiểu Thuyết thứ Bảy, tờ báo khá phổ thông trong đời sống văn học trước 1945 của ông chủ Vũ Đình Long. Tờ báo tập hợp được rất nhiều cây bút thuộc nhiều khuynh hướng viết, trong đó có nhiều người rồi sẽ thuộc trong số những tác gia lớn của văn học Việt Nam thế kỷ XX.
Thạch Lam: Một tâm hồn văn chương lặng lẽ nhưng sâu thẳm của Tự lực văn đoàn (Phần 4 và hết)
Thạch Lam có quan niệm dứt khoát về thiên chức của văn chương: “Đối với tôi, văn chương không phải một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn”. Có lẽ cả hai phương diện, vừa tố cáo, vừa xây dựng, đều được Thạch Lam chú ý; và trong phần thành công của nó, các dấu ấn hiện thực và lãng mạn trong văn Thạch Lam đều tìm được sự gắn nối ở chính quan niệm này.
Thạch Lam: Một tâm hồn văn chương lặng lẽ nhưng sâu thẳm của Tự lực văn đoàn (Phần 3)
Đi vào thế giới nghệ thuật và các quan niệm văn chương nghệ thuật Lam, chúng ta luôn luôn được thấy, một mặt, nếu giá trị hiện thực, nhân đạo là cái đích người viết cần vươn tới, thì mặt khác, việc khơi gợi, khám phá, đi sâu vào vẻ đẹp, vào lõi hồn và tính chất dân tộc, vào những giá trị văn hóa, tinh thần tiềm tàng trong sự sống hàng ngày cũng là một phương diện mà văn chương cần quan tâm.
Thạch Lam: Một tâm hồn văn chương lặng lẽ nhưng sâu thẳm của Tự lực văn đoàn (Phần 2)
Những “khoảng tối” và sức gợi của nó, thường trở đi trở lại nhiều lần trên văn Thạch Lam. Có phải đây là một cách nhìn cuộc sống có hơi bị? Cái đó chưa chắc chắn lắm! Thật chưa dễ dứt khoát khẳng định điều này, khi cái không khí “vui vẻ trẻ trung” không phải là không còn để sót ít nhiều dư vị. Nhưng ở những trang hay, những truyện hay của Thạch Lam, chưa bao giờ tôi thấy có một kết thúc “lạc quan”, theo hướng bôi hồng.
Thạch Lam: Một tâm hồn văn chương lặng lẽ nhưng sâu thẳm của Tự lực văn đoàn (Phần 1)
Thạch Lam bắt đầu hoạt động văn học từ 1936, là thành viên của Tự lực văn đoàn, một nhóm văn học tiêu biểu cho khuynh hương lãng mạn, nổi lên trên văn đàn công khai 1932 - 1945.
Hoài Thanh trước 1945: Con đường đi đến Thi nhân Việt Nam (Phần 3 và hết)
Một sự triển khai các quan niệm văn chương như trên không thể nói là không sai lầm, nhưng đó lại là một quan niệm rất nhất quán và được bảo lưu rất kiên trì trong sự nghiệp viết văn của Hoài Thanh trước năm 1945.
Hoài Thanh trước 1945: Con đường đi đến Thi nhân Việt Nam (Phần 2)
Không chỉ phô bày thực trạng, Hoài Thanh còn kêu gọi con người không được quay lưng mà phải biết “nghĩa vụ làm dân, làm người”... “Làm một người dân Việt Nam ở thời bây giờ, trên vai ta mang nặng những trách nhiệm, không thể từ chối được”... “Trước tình thế như vậy vòng tay đứng nhìn là một tội ác. Nhất là với những người có học, nghĩa là những người đã chịu cái ơn nuôi dạy của xã hội”.
Hoài Thanh trước 1945: Con đường đi đến Thi nhân Việt Nam (Phần 1)
Hoài Thanh - người có một sự nghiệp phê bình trước Cách mạng tháng Tám 1945. Hơn thế, cùng với Thiếu Sơn - tác giả Phê bình và Cảo luận (1933), Hoài Thanh còn là người khai mạc nền phê bình văn học Việt Nam hiện đại.
Hoài Thanh sau 1945: Vui buồn nghề nghiệp (Phần 2 và hết)
Trong những ngày cuối đời, Hoài Thanh đã được nghe 8 câu thơ của Xuân Sách viết về chân dung ông. Có thể nói ông đã nghe một cách bình tĩnh - cái bình tĩnh sở dĩ có được theo tôi là có gắn với sự chuyển đổi trong thái độ của ông đối với Thi nhân Việt Nam và trong cái nhìn tổng kết cả đời mình. Nghĩa là ông sẵn sàng chấp nhận một phần những gì được nói. Ông chỉ buồn vì một câu nói oan và ác; và còn cho biết “có không ít người nghĩ như thế về ông”: Nửa đời sau lại vị người ngồi trên.