90 Chân dung văn hóa
Nam Cao: Nhà văn của những phận người “sống mòn” và ám ảnh thời đại (Phần 3 và hết)
Từ nhà văn sống mòn giữa thời loạn, Nam Cao hòa mình vào cách mạng với ngòi bút làm vũ khí. Mười năm viết, mười năm sống hết mình cho dân tộc, ông để lại phù điêu bất hủ trong văn học hiện thực Việt Nam hiện đại.
Nam Cao: Nhà văn của những phận người “sống mòn” và ám ảnh thời đại (Phần 2)
Với Chí Phèo và Sống mòn, Nam Cao không chỉ khắc họa số phận người nông dân và trí thức nghèo mà còn tạo nên một thế giới văn chương độc đáo, đầy ám ảnh và trường tồn trong dòng văn học hiện thực Việt Nam.
Nguyễn Khắc Viện: Người bác sĩ không hành nghề, nhưng chữa lành tâm hồn một dân tộc (Phần 3)
Chung quanh nghị lực sống và ý chí sống này ở Nguyễn Khắc Viện còn biết bao điều để nói. Tôi được biết ông đã phải chịu đựng một năm tròn không nói, để làm một người câm, vì có lúc phép chữa lao đòi hỏi thế. Im lặng và thở nhẹ, không phải để đi vào giấc ngủ, mà để đi vào sự tồn tại, sự sống, sự hoạt động vốn là hằng thường của đời người mà lại quá bất thường, thậm chí là nghiệt ngã đối với ông. Không nói, rồi ít nói; lại phải nói nhẹ nhàng, đủ hiểu; mọi cử động bản thân đều phải tiết kiệm vì thiếu thở, vì lúc nào ông cũng phải tập thở - tổng gộp âm và lượng nói của ông trong suốt cả đời quả rất ít so với người đời; nhưng ông đã nói được bao điều không chút nhàm tẻ...
Nguyễn Khắc Viện: Người bác sĩ không hành nghề, nhưng chữa lành tâm hồn một dân tộc (Phần 2)
Trong con người hom hem vì bệnh trọng và sức yếu lại là một người rất ham mê thể thao. Một ý chí và một niềm ham say luôn luôn dồi dào, không nản mỏi trong suốt cuộc đời ngoài tuổi 80 của mình.
Nguyễn Khắc Viện: Người bác sĩ không hành nghề, nhưng chữa lành tâm hồn một dân tộc (Phần 1)
Tôi rất mong được viết về bác sĩ Nguyễn Khắc Viện từ nhiều năm nay; nhưng tất cả những dịp quan trọng đều đã qua đi: Ngày sinh nhật lần thứ 75 rồi 80 của ông. Ngày ông được nhận Giải thưởng lớn về Pháp ngữ (Grand prix de Francophonie) của Viện Hàn lâm Pháp năm 1992. Ngày ông qua đời. Rồi ngày giỗ đầu... Nỗi băn khoăn chưa viếto được về ông cứ như một món nợ lòng. Tôi hiểu vì sao tôi cứ phải lần lữa vậy!
Nam Cao: Nhà văn của những phận người “sống mòn” và ám ảnh thời đại (Phần 1)
Từ một bản thảo suýt bị vứt vào sọt rác, Nam Cao đã viết nên "Chí Phèo" – kiệt tác mở đầu cho hành trình ngắn ngủi nhưng rực rỡ của một nhà văn hiện thực xuất sắc, sống trọn với nghề dù chưa kịp hưởng vinh quang khi còn sống.
Xuân Diệu - Mùa xuân và Tình yêu
Xuân Diệu, với xuân - có thể hiểu là mùa xuân mà không cần suy diễn - ông sinh vào mùa xuân cách đây đúng 79 năm: Tháng 2-1916.
Thanh Châu: Một đời văn lặng lẽ trong dòng chảy văn học hiện đại (Phần 3 và hết)
Bị cuốn vào sóng gió văn nghệ sau 1954, Thanh Châu – cây bút lặng lẽ của trào lưu lãng mạn – đã ngừng viết khi chưa tròn năm mươi. Hơn bốn mươi năm lặng im, ông vẫn giữ nguyên lòng yêu nghề, như một chứng nhân lặng thầm của thế hệ vàng văn chương hiện đại.
Thanh Châu: Một đời văn lặng lẽ trong dòng chảy văn học hiện đại (Phần 2)
Thế giới nhân vật truyện của Thanh Châu có phần giống như Ngọc Giao - đó là tầng lớp trung lưu ở đời sống thành thị; những sinh viên, công chức, nghệ sĩ (thường là họa sĩ) với hoạt động nghề nghiệp của họ.
Trương Tửu, Người mở lối cho khoa học văn học Việt Nam (Phần 4 và hết)
Trong công trình mới, Trương Tửu vẫn tiếp tục vận dụng và càng quán triệt hơn sự phân tích giai cấp và quan điểm duy vật lịch sử trong tìm hiểu giá trị tác phẩm.
Trương Tửu - người mở lối cho khoa học văn học Việt Nam (Phần 3)
Sau 1954, ở trường đại học, Trương Tửu viết tiếp hai công trình quan trọng. Đó là Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du (Nxb. Xây dựng; 1956) vốn là đề tài ông theo đuổi rất say mê từ trước 1945. Và một khởi thảo, nghiêng về lý luận và phương pháp luận cho việc viết lịch sử văn học trong Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam (Nxb. Xây dựng; 1958).
Trương Tửu - Người mở lối cho khoa học văn học Việt Nam (Phần 2)
Trở lại thời kỳ đầu sau Cách mạng tháng Tám của Trương Tửu, với chủ trương Tân văn hóa và với việc công bố Tương lai văn nghệ Việt Nam. Gần như ngay lập tức Hội văn hóa cứu quốc có bài phê phán Trương Tửu, trong đó có sức nặng nhất là bài của Thanh Bình (tức Đặng Thai Mai) đăng trên 3 kỳ Tiên phong.
Trương Tửu - Người mở lối cho khoa học văn học Việt Nam (Phần 1)
Lần đầu tiên tôi tiếp xúc với Trương Tửu qua tiểu thuyết Một chiến sĩ (1938), qua công trình nghiên cứu Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1943) của tiểu thuyết tôi không thích lắm vì quá nhiều lý sự và văn hơi khô. Tôi thích cuốn sau hơn. Cách thức gắn trực tiếp văn học với xã hội học và triết học duy vật quả đã đem lại nhiều kết luận mới mẻ, khác lạ, khiến cho Trương Tửu (dưới bút danh Nguyễn Bách Khoa) trở thành đại diện cho một khuynh hướng mới trong nghiên cứu - phê bình văn học lúc đương thời; và về sau sẽ có người tổng kết và nâng lên thành một khuynh hướng - đó là khuynh hướng khoa học.
Thanh Châu: Một đời văn lặng lẽ trong dòng chảy văn học hiện đại (Phần 1)
Trong dòng chảy rực rỡ của văn học Việt hiện đại giai đoạn 1930–1945, bên cạnh những tên tuổi lẫy lừng, Thanh Châu hiện lên như một tiếng nói lặng lẽ nhưng bền bỉ, góp phần làm nên diện mạo trào lưu lãng mạn với những truyện ngắn thấm đẫm chất thơ và nỗi buồn thời cuộc.
Nguyễn Huy Tưởng với hành trình xuyên suốt từ Vũ Như Tô đến Sống mãi với Thủ đô (Phần 4 và hết)
Sự liên tưởng đưa tôi đến với bài của Nguyễn Minh Châu về một giai đoạn “văn chương minh họa”, viết năm 1983 tức là hơn mười năm sau khi đất nước hết chiến tranh.
Lưu Trọng Lư: Gương mặt thi sĩ đa diện với những khoảng lặng văn xuôi (Phần 2 và hết)
Một tài thơ chói sáng như Lưu Trọng Lư rất dễ làm lu mờ những khu vực khác. Thế nhưng, không chỉ vì số lượng, mà ngay cả chất lượng, văn xuôi của Lưu Trọng Lư cũng có để lại những giá trị đáng lưu ý.
Lưu Trọng Lư: Gương mặt thi sĩ đa diện với những khoảng lặng văn xuôi (Phần 1)
Là một trong các kiện tướng của phong trào Thơ mới, Lưu Trọng Lư còn là người viết văn xuôi - như Xuân Diệu với Phấn thông vàng; từ thơ và văn xuôi lại chuyển sang hoạt động sân khấu, trong tư cách người viết kịch bản và lãnh đạo ngành sân khấu Việt Nam sau 1945 - như Thế Lữ.
Giáo sư Hoàng Xuân Nhị: Người mở lối cho văn học Nga ở Việt Nam (Phần 2 và hết)
Chỉ học với thầy Hoàng Xuân Nhị ba năm đại học, nhưng suốt nhiều thập kỷ sau, tôi vẫn giữ nguyên lòng kính trọng với một bậc giáo sư mẫu mực, người đã góp phần đặt nền móng cho khoa Ngữ văn và nền học thuật Việt Nam hiện đại.
Giáo sư Hoàng Xuân Nhị: Người mở lối cho văn học Nga ở Việt Nam (Phần 1)
Lại đến sinh nhật 100 năm – “trăm năm trong cõi người ta” một bậc thầy của thế hệ chúng tôi – thế hệ sinh viên khóa đầu tiên của Đại học Tổng hợp Hà Nội: Giáo sư Hoàng Xuân Nhị. Trước đây không lâu là Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường (năm 2009), nhà phê bình Hoài Thanh (2009), Giáo sư Trương Tửu (năm 2013). Xa hơn về trước là Giáo sư Cao Xuân Huy (2000), Giáo sư Đặng Thai Mai (2002), nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan (2002)... Những tên tuổi trên là các bậc thầy trực tiếp hoặc gián tiếp của thế hệ tôi thuộc lĩnh vực khoa học văn chương, khoa học nhân văn, khoa học xã hội.