Nguyên Hồng – ngòi bút thành thực nhất của lớp dân nghèo thành thị (Phần 4 và hết)

Phải 36 năm sau ngày mất, nhân kỷ niệm 100 năm sinh của Nguyên Hồng, vào 5 tháng 11 năm 2018 chúng ta mới được đọc, được tiếp xúc với nhật ký của Nguyên Hồng.
11053-1756983653.jpg
Nguyên Hồng ở tuổi ngoài năm mươi – hình ảnh đặc trưng gắn với thời kỳ sáng tác dồn dập. Ảnh: Internet

Để cùng với một sự nghiệp viết cũng trên 40 năm mà đưa Nguyên Hồng lên hàng đầu những người chọn lao động Viết làm nghề nghiệp; với đối tượng viết, cũng là đối tượng của yêu thương, chia sẻ, là những người khốn khổ (một tên sách của V. Hugo), những người lam lũ, vất vả, cực nhục trong mưu sinh. Cũng như chính Nguyên Hồng, trong thân phận những nhân vật của mình.

Nhật ký ghi từ 1941, cũng có nghĩa là song hành với thiên hồi ký, hoặc tự truyện Những ngày thơ ấu in năm 1941 của Nguyên Hồng, ngay sau khi ra đời, đã nhận được lời khen, khó có gì có thể cao hơn của Thạch Lam, nhà văn sáng giá nhất của Tự lực văn đoàn, đó là “sự rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại”. Cũng như vậy, trước thiên hồi ký này 3 năm là tiểu thuyết Bỉ vỏ Nguyên Hồng viết ở tuổi 20, vừa ra đời đã nhận được Giải thưởng của Tự Lực văn đoàn, Giải thưởng sang trọng nhất trên văn đàn Việt Nam trước 1945.

Rực rỡ ngay từ sáng tác đầu tay, cái tên Nguyên Hồng rồi sẽ cùng song hành với những tên tuổi sáng giá nhất trong dàn văn chương 1930 - 1945 như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng trước ông, và Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Tô Hoài sau ông. Trong so sánh với những tên tuổi lẫy lừng này, Nguyên Hồng có nhiều khó khăn, vất vả, lam lũ hơn họ, và những ám ảnh về việc viết dường như cũng thường trực và da diết hơn họ. Sau Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu, cùng với 9 tên sách khác, rồi sẽ đến với bạn đọc hai tập truyện Địa ngục và Lò lửa, đúng vào thời điểm 1945; một bên là “địa ngục” với 2 triệu người dân Việt chết đói, và một bên là “lò lửa” để có một cuộc đổi đời vĩ đại từ Tháng Tám - 1945. Từ đây, với một mục tiêu rất cao, rất xa là bộ tiểu thuyết trường thiên 4 tập, trên 3000 trang Cửa biển, thực hiện trong 15 năm, từ 1961 đến 1976, Nguyên Hồng sẽ không lúc nào rời cái cặp da căng phồng bản thảo để trả một món nợ lớn cho quê hương sống và viết của mình: Hải Phòng. Bộ sách ôm chứa biết bao là sự kiện, cũng biết bao là tình người trong khoảng rộng và trong chiều sâu của những số phận, nó cũng chính là một phần máu thịt của đời ông.

Và, cùng với tình người nói chung còn là tình gia đình, tình vợ chồng, anh em, cha con, bè bạn; nhất là bè bạn trong nghề nghiệp, số lớn đều là những tên tuổi hàng đầu trước 1945; với không gian Bắc Giang, quê hương người anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám, nơi có ngôi nhà tranh tre nứa lá của ông ở Ấp Cầu Đen, nơi ông “Đốc Hồng” chăm chút cho ngôi Trường Văn nghệ nhân dân của Hội, và cũng là của ông; và Hà Nội, với cơ quan Hội Nhà văn, gia đình thứ hai của ông; tuần báo Văn, nơi ông là Thư ký Tòa soạn. Rồi từ địa chỉ báo Văn, do vướng vào vụ Nhân văn mà gặp họa, ông sẽ dứt khoát đến quyết liệt dắt díu vợ con về lại Ấp Cầu Đen, để sống và viết, chấp nhận mọi vất vả, khó khăn cho đến khi qua đời.

Từng trang nhật ký theo cách sắp xếp của Thanh Thư, Nhã Nam, hai con gái của ông, cho ta một hình dung rõ nét về những chặng đường Nguyên Hồng đi cùng vợ con, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp. Cũng là cùng với thế giới nhân vật của ông, đó là Nhân dân, là Đất nước - “Đất nước yêu dấu”, như tên một tác phẩm của ông viết năm 1949.

c148532c-0aee-4184-bb21-dc9bfee0a262-1756983685.jpg
7 người con của nhà văn Nguyên Hồng. Ảnh: Công An Nhân dân

Những trang nhật ký bám lấy Nguyên Hồng cho tận đến 1981 - 1982, trước khi ông qua đời rất nhanh, gần như không có gì chuẩn bị, do một cơn đột quỵ, nơi gian bếp ngôi nhà ở Ấp Cầu Đen.

36 năm sau, kể từ ngày ấy, cho đến hôm nay, trong lao động miệt mài đêm ngày của Thanh Thư và Nhã Nam, người đọc chúng ta có một dịp may mắn, nhân 100 năm sinh mà gặp lại Nguyên Hồng trong vai người ghi nhật ký, tức là người không có bất cứ gì là rào chắn trong một thể hiện tuyệt đối, một trăm phần trăm, sự trung thực với mình, trung thực đến từng dấu chấm, dấu phẩy cho mỗi ý nghĩ, mỗi sự việc. Còn tôi, là một người đọc chăm chỉ của thế kỷ XX, tôi vô cùng trân quý, và cảm động, đôi khi đã rớm nước mắt trên những trang quá may mắn mà còn giữ lại được của Nguyên Hồng. Đây là hạnh phúc lần thứ 2 tôi có, sau khi được đọc trên dưới 1000 trang nhật ký Nguyễn Huy Tưởng ghi ròng rã liên tục trong 30 năm, từ 1930 đến 1960, trước đây 5 năm, rút từ 40 cuốn sổ tay bà vợ còn giữ được nguyên vẹn, 50 năm sau ngày Nguyễn Huy Tưởng qua đời ở tuổi 49.

Hai bộ nhật ký của hai tên tuổi sáng giá trên đàn văn Việt thế kỷ XX, đó chính là pho sử trung thực về nhân dân, về đất nước, về con người; và về lao động nghề nghiệp của nhà văn ở xứ ta; cũng là về cả chúng ta, và cho chúng ta.

Cảm ơn rất nhiều, tự đáy lòng, những người con gái của Nguyên Hồng trong một công việc cực kỳ thiêng liêng, và vất vả trên từng trang chữ của người Cha, với tất cả sự thành kính, lòng biết ơn, tình yêu thương và nỗi ân hận muộn màng, như được ghi trong Lời tựa./.

GS. Phong Lê