Trong số các tác giả văn học hiện thực tiêu biểu trước 1945, tôi sớm được đọc Nguyên Hồng cùng với tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn. Tôi sớm để vào trong bộ nhớ sự chung sống đến lẫn lộn của hai thế giới: Một thế giới trưởng giả và sang trọng gồm những bà Phán, bà Án, bà Tuần, những trai thanh gái lịch như Lan - Ngọc, Loan - Dũng với thế giới túng đói, vất vưởng, cầu bơ cầu bất của đám trẻ con nơi đầu đường xó chợ trong Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, trong đó có cả thằng Hồng, nhân vật chính, bố là quản đề lao, nghiện ngập rồi mất sớm, mẹ luôn đi kiếm ăn xa nên phải ở với bà nội và một người cô... Cái tiếng kèn điểm danh của nhà lao mỗi sáng trở thành một thứ nhạc hiệu riêng cho mỗi ngày sống của cậu bé Hồng vừa nhỏm dậy đã chạy bắn ra đường, lấy vỉa hè, bãi chợ làm nơi sinh hoạt... Hai cái thế giới ấy mới khác nhau, mới ngược nhau làm sao! Thế mà tồn tại cùng nhau trong trí óc non nớt của tôi. Bởi, cuốn sách nổi tiếng nhất của Nguyên Hồng, có tên Bỉ Vỏ đã được Nhà xuất bản Đời Nay của Tự lực văn đoàn ấn hành với lời đề tựa của Thạch Lam.
Từ buổi tiếp xúc đầu tiên ấy tôi đâm ra “mê” cái thằng Hồng - nhân vật, và cái bút danh Nguyên Hồng - tác giả. Tôi cứ ngẩn ngơ hoài trước một tuổi thơ sao mà cay cực đến thế, và sao mà nhà văn lại có thể thành thực đến thế! Một sự thành thực đến tận từng chi tiết, khiến đọc đến mà sững sờ, mà nổi gai lên trong trí, mà run rẩy đến từng cảm xúc. Chẳng hạn cái chi tiết ông bố lần tìm và tước đoạt cọc tiền xu giấu sâu trong dải rút quần của đứa con nhờ đánh đáo mà có được, để đi mua thuốc phiện... Mãi về sau này tôi mới chú ý đến câu văn nổi tiếng của Thạch Lam khi giới thiệu cuốn sách này - ấy là “sự rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại”.
Cũng mãi sau này tôi mới biết Nguyên Hồng từng phải đi tù rất sớm khi còn là trẻ con; và mới vào tuổi thành niên đã phải ba lần vào tù. Hiểu vì sao Nguyên Hồng đã từng viết một lúc về tù phụ nữ và tù trẻ con.
Nhưng với Nguyên Hồng, cũng khó mà nói cảnh trong tù và cảnh ngoài tù, cảnh nào cay đắng hơn!
Khác với tất cả những người viết cùng thời, Nguyên Hồng là người sống trọn vẹn trong cảnh lầm than, sống với thế giới của tất cả những người lầm than. Tôi nói thế giới, bởi lòng tin ông quen biết không phải chỉ một vài lớp người mà là hàng chục, hàng nhiều chục lớp người nghèo họp thành bộ mặt dưới đáy đời sống thành thị. Bởi, nơi cái Xóm Cấm hoặc cái Vườn - hoa - đưa - người của Hải Phòng mà ông quen thuộc, nào có thiếu bất cứ nghề gì, để được coi là nghề, cho sự sống dưới đáy ấy, để có cái đưa vào miệng, để duy trì cho được một sự sống tối thiểu mà nguy cơ của cái đói, của cả sự chết đói cứ triền miên rình rập quanh họ.
Và “cậu giáo”, người sống cùng với họ, là Nguyên Hồng, cũng đâu thoát được sự đe dọa của cái đói. Bởi lẽ cậu giáo lại chính là người phải sống “nhờ” vào họ bằng nghề “cậu giáo”, với thu nhập thất thường mỗi tháng dăm đồng, ở những cái lớp học vỡ lòng mở ra trong chính gian ở của cậu mà không được phép của chính quyền. Cậu cũng từng chịu đựng cái đói triền miên, không kể đói tình thương, để có thể viết nên những trang về đói thuộc loại hay nhất trong văn học hiện đại Việt Nam. Không kể Nguyên Hồng còn là người hiếm hoi để lại những trang khủng khiếp nhất về nạn đói hai triệu người chết trong Địa ngục, những trang làm nên một bảo tàng lịch sử về tội ác của chủ nghĩa phát xít và thực dân vào tháng ba năm Ất Dậu - 1945.