Ở tuổi hai mươi trong phong trào Mặt trận Bình dân, Trần Mai Ninh đã là một cây bút trẻ như một số ít cây bút khác, gắn hoạt động của đời mình với phong trào báo chí công khai của Đảng, của cách mạng. Chàng thanh niên Nguyễn Thường Khanh đã làm đủ các loại việc ở các tòa soạn báo, với tư cách phóng viên, biên tập viên, cả nhân viên trị sự, thật năng động và say mê, từ Thời thế, Bạn dân, đến Tin tức là tờ báo của Đảng, rồi Thế giới của Đoàn thanh niên Dân chủ, mà ông cũng là thành viên trong Ban lãnh đạo. Ông đã dứt khoát từ bỏ con đường học để làm công chức, làm quan - con đường vốn đã được mở ra khá rộng rãi cho một thanh niên ham học và thông minh, con một ông tham lục lộ, cháu một ông tri phủ. Lý tưởng cách mạng đã cuốn hút người thanh niên trí thức Nguyễn Thường Khanh, và môi trường báo chí trong hoàn cảnh công khai hồi 1936 - 1939 đã thành nơi rèn luyện ý chí cho ông. Nơi đó, trong hoạt động báo chí, ông đã có dịp cho công bố những vần thơ đầu tiên, thể hiện chí hướng và tâm hồn một lớp tuổi trẻ đang nỗ lực vượt khỏi cái tôi riêng để đến với cái ta chung của nhân quần:
Thôi đi! Phải phá vỡ lòng ta
Phá vỡ bình bông tự ái, và
Phá vỡ gương tàn soi trí thức!
Quyết làm vang dậy sóng đầu ta!
(Tôi buồn – 1938)
Cuộc vượt mình này trong bước khởi đầu của một thanh niên trí thức tìm đường đâu phải kém quyết liệt; nhưng khi đã có cơ vượt được thì niềm vui sẽ dâng tràn:
Thôi đi dẹp ánh mắt buồn
Cùng người nhịp bước trên đường tự do
Bể trần đâu có bến bờ
Lòng ta đâu có ở hờ lặng thinh
Ý lành nâng đợi nơi mình
Bàn tay rắn lại thân hình tràn lên
Bạn ta lẽ cả muôn nghìn
Đời ta mai rọi ánh đèn thiên thu.
(Lia đàn - 1939)
Đâu đây bạn mới muôn người
Tương tư chi nữa?
Hãy cười cho duyên!
Nắng hường tô đậm mái hiên,
Nào trăm xứ bạn, đứng lên động rừng.
(Tương tư)
Những lời xa xôi, chọn chỗ đứng cho đời, chọn hướng đi cho hành trình, vốn là tâm trạng chung của một thế hệ sớm biết gắn số phận cá nhân mình với số phận chung của dân tộc, mà kết tinh nơi đỉnh cao nhất là Tố Hữu.
Từ 1939, khi Mặt trận Bình dân đổ, cách mạng chuyển sang thời kỳ bí mật, Nguyễn Thường Khanh trở về quê nhà Thanh Hóa tiếp tục hoạt động ở chiến khu Ngọc Trạo, và tiếp tục viết cho tờ Bạn đường. Chẳng bao lâu ông bị bắt, bị tù đày ở Thanh Hóa, từ 1942 - 1944. Rồi bị phát vãng đi Buôn Ma Thuột.
Những ngày sôi nổi nhất của Trần Mai Ninh là những ngày Cách mạng tháng Tám, sau khi ở tù ra và hoạt động trên chiến trường miền Nam Trung Bộ, từ Bình Định và Phú Yên, Khánh Hòa. Tuổi ngoài hai mươi lăm, Trần Mai Ninh có thêm sự già dặn trong kinh nghiệm trường đời, có thêm vốn kiến thức văn hóa, văn học sau những năm ráo riết tự học ở trường học báo chí, ở chiến khu và ở trong tù. Vào những năm ấy, những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám, Trần Mai Ninh thuộc số rất ít thanh niên có vốn kiến thức khá rộng và sâu về văn hóa cách mạng và văn học phương Tây, trong đó bộ phận văn học tiến bộ của Pháp và Liên Xô (cũ) là khu vực ông không chỉ thấm nhuần mà còn là người tuyên truyền rất nồng nhiệt. Không ít người viết ở Khu Năm và Nam Trung Bộ lúc ấy vẫn còn nhớ đến người thầy, người anh, người bạn văn rất tài năng và tâm huyết là Trần Mai Ninh - người có một “cuộc đời rất đẹp”, như trong kỷ niệm của nhà thơ Phạm Hổ.
Không đầy mười năm - một cuộc đời rất mực sôi nổi ở tuổi hai mươi của Nguyễn Thường Khanh - Trần Mai Ninh, từ 1937 đến 1947.
Không đầy mười năm, Trần Mai Ninh đã có thể cho ra mắt bạn đọc một khối lượng không nhỏ những sáng tác đầu tiên của mình gồm một số truyện ngắn và hai phác thảo truyện dài là Ngơ ngác và Thằng Tuất. Ngơ ngác - ngổn ngang hình ảnh một lớp thanh niên trước ngưỡng cửa cuộc đời đầy biến động; và Thằng Tuất - phác thảo chân dung một lớp thiếu nhi quá sớm phải vào đời kiếm sống.
Những trang văn xuôi này cùng một số truyện ngắn khác của Trần Mai Ninh quả còn nhiều vụng về trong cấu tạo và diễn đạt. Tác giả dường như luôn luôn viết trong hăm hở và trong vội vàng, với quá nhiều hình ảnh và ý tưởng xô đẩy, dồn dập. Phần lắng lại được trong tâm trí bạn đọc ở Trần Mai Ninh vẫn là thơ, những bài thơ mang nội dung lành mạnh, trong những ước mơ và dằn vặt tìm đường của một lớp thanh niên trí thức trẻ, khát khao gắn bó với thời cuộc, gắn bó với số phận của nhân dân lao khổ. Thế nhưng thật đáng ngạc nhiên, từ những vần thơ còn in đậm dấu ấn bồng bột, lãng mạn của buổi đầu vào đời, từ sau thời điểm 1945, rồi bước vào kháng chiến, Trần Mai Ninh bỗng trở nên đổi khác và nổi tiếng ngay với hai bài Thơ mới, mang rất đậm phong cách hiện thực, in rất sâu vào trí nhớ bạn đọc không chỉ một thời, đó là Nhớ máu và Tình sông núi. Hai bài thơ biểu đạt thật sống động hai tình cảm lớn: Yêu nước và căm thù; hai tình cảm bao trùm lên đời sống tinh thần chung của dân tộc suốt mấy chục năm chiến tranh. Hai bài thơ góp vào sự đổi mới của văn học sau 1945, góp vào sự khai sinh của nền thơ cách mạng sau 1945.
Đây là những bài thơ tự do, tôi nghĩ, có lẽ thuộc số những bài còn hiếm hoi đầu tiên trong nền thơ cách mạng Việt Nam. Những bài gắn với không khí cách mạng, gắn với sự hình thành một đội ngũ người viết mới, sớm tiếp nhận các ảnh hưởng của nền thơ tiến bộ thế giới - trước hết là thơ Pháp và thơ ca Xô viết, trong đó gương mặt trung tâm gợi rất nhiều sức hấp dẫn là Mayakovsky. Thơ tự do, thơ leo thang, thơ phá thể, kiểu Mayakovsky, tôi nghĩ, không phải chờ đến sau này mới có, mà đã được khai mở một cách triệt để từ Trần Mai Ninh. Thơ để cho ý tình tự do tuôn chảy, không chịu bất cứ sự gò bó nào của số lượng câu chữ và âm vận.
Thơ vừa trải rộng trên mặt bằng phóng khoáng của không gian:
Ơ cái gió Tuy Hòa
Cái gió chuyên cần và phóng túng.
Gió đi ngang, đi dọc
Gió trẻ lại - lưng chừng...
vừa thắt lại trong những khắc họa nghiêm ngặt về người, những con người thuộc phía ta:
Ta có nhớ
Những con người,
Đã bước vào bất tử!
Ơ, những người
Đen như mực, đặc thành keo
Tròn một củ.
Hay những người gầy sắt lại
Mặt rẹt một đường gươm.
và những kẻ không còn hình người, phía địch:
Cả một đoàn chó ghẻ
Súa lau nhau
Và lần lượt theo nhau,
Chết không kịp ngáp!
Dao găm để gáy
Súng màng tang
Ồng ộc xối đầy đường máu chó.
(Nhớ máu; 9/11/46)
Tình sông núi với rất nhiều địa danh: Trà Khúc, Tam Quan, Bồng Sơn, Phù Cát, Bình Định, Phú Phong, An Khê, Vũng Lãm, Tuy Hòa, Nha Trang, Diên Khánh... Vẫn thơ tự do, nhưng có khác Nhớ máu - quyết liệt trong chiến đấu, căm thù, ở đây là dịu êm và xanh mát của thiên nhiên, sông núi, ruộng đồng, qua sự phối xen những dòng lục bát thân thuộc:
Tôi lim dim cặp mắt
Không thấy nơi nào không đẹp, không giàu.
Lúa xanh như biển rộng
Núi vươn cao khắp các sườn đèo
Rẫy đè lên rẫy
Bắp và khoai tiếp bắp và khoai
Mấy sông là mấy vạn chài
Ngựa xe rào rạt đổ người sang ngang.
Ở đây là tình yêu - tình yêu đất nước, được nhắc lại đến ba lần, trong cùng câu hỏi:
Có mối tình nào hơn thế nữa?
Để đến câu thứ tư là câu trả lời:
Có mối tình nào hơn Tổ quốc?
Gân guốc, dồn nén, chắc nịch trong ý tình, trong lời chữ, để phô diễn những tình cảm quyết liệt. Quyết liệt trong yêu và ghét. Quyết liệt trong ý chí, nghĩ suy, hành động. Thơ Trần Mai Ninh như trong Nhớ máu, Tình sông núi là thơ của hành động, thơ hối thúc con người hướng tới hành động.
Bởi lẽ, tác giả Trần Mai Ninh là con người hết mình với một tuổi trẻ ham say hành động. Là tấm gương tiêu biểu của một thế hệ thanh niên vừa tìm đường, vừa mở đường, trong đó có người đã tìm đến thơ văn như một tấm gương soi trung thành lý tưởng và tâm hồn họ, vừa như một vũ khí hành động.
Con người ấy - Trần Mai Ninh, như trong cuộc đời và trong thơ, cũng đã một lần, trực tiếp nói đến sự gắn bó, sự nhất trí giữa sự sống và văn thơ, trong tiểu luận duy nhất của mình, có tên Sống đã... rồi viết văn: “Một nhà văn ví muốn sáng tác cho thật có giá trị trong suốt cả cuộc đời, điều quan hệ nhất là suốt cả một đời nhà văn ấy phải học, học ở nơi trang sách của đồng loại và nhất là học ngay bằng máu thịt của mình tung ra giữa trường hoạt động, trong một sự sống ngang tàng, chăm chỉ, không dừng một phút”.
Tuổi trẻ và đời văn Trần Mai Ninh là như thế./.