Nguyên Hồng – ngòi bút thành thực nhất của lớp dân nghèo thành thị (Phần 2)

Nguyên Hồng – nhà văn của người cùng khổ, cả đời lao lực với ngòi bút. Từ Bỉ vỏ đến bộ tiểu thuyết trường thiên Cửa biển, ông viết trong đói nghèo, sống tận cùng với nhân vật, để lại di sản khổ hạnh và thiêng liêng của một đời văn hiếm có.
nguyen-hong-1704972445440-1756983268.jpg
Cả đời Nguyên Hồng gắn bó với số phận dân nghèo và viết trong đói nghèo

Gọi Nguyên Hồng là nhà văn của người cùng khổ tưởng không ai trong số các nhà văn hiện đại của ta thích hợp hơn, xứng đáng hơn. Bởi số phận của họ còn được nhà văn theo đuổi cả một đời, kể từ cuốn sách đầu tay Bỉ vỏ đến bộ tiểu thuyết đồ sộ cuối đời là Cửa biển, 4 tập, trên 2000 trang, lần lượt ra mắt bạn đọc trong khoảng 15 năm, kể từ năm 1961, năm ra mắt tập I, có tên Sóng gầm. Đây là bộ tiểu thuyết có lẽ là đồ sộ nhất trong văn học Việt Nam hiện đại tính cho đến khi Nguyên Hồng qua đời. Bộ sách là tổng hợp toàn bộ kinh nghiệm sống của ông, là sự trải rộng và đúc kết mọi mặt vốn sống của ông về Hải Phòng lầm than và hướng tới cách mạng, trong đó không có nhân vật nào ông không gửi gắm một niềm yêu ghét được đẩy đến độ tận cùng.

Nói đến một sự hóa thân triệt để của nhà văn vào thế giới nhân vật, tôi nghĩ không ai hơn được Nguyên Hồng. Sống với những khổ đau của nhân vật đến có thể luôn luôn, lúc nào cũng có thể rưng rưng mà khóc vì họ, băn khoăn đến hốt hoảng vì họ, không ăn ngủ được vì họ, như một người mẹ mang thai, có lẽ chỉ riêng Nguyên Hồng mới có...

Trong hình dung của tôi, Nguyên Hồng là người mà nỗi đam mê sáng tác là triệt để đến một trăm phần trăm, là không có đam mê nào khác chen vào được Chỉ có viết và viết. Viết từ trẻ cho đến già. Viết cả trong nhà tù và viết trong cái đói thường trực. Tựa như dốc cạn cuộc đời ra mà viết. Tựa như vắt kiệt mình ra mà viết. Viết với tất cả tín niệm thiêng liêng, cao cả của nghề. Không viết không sống nổi. Không viết không có gì minh chứng cho sự hiện diện, sự tồn tại của bản thân mình. Chỉ ngừng viết khi bất ngờ ngã xuống trên vườn nhà, do chuyển từ động thái viết sang động thái lao động chân tay, để trát lại bức tường đất của gian bếp đã long lở. Có một lúc dường như ông có thưa viết, ấy là buổi đầu kháng chiến chống Pháp, khi nhà văn từ Hải Phòng chuyển về Bắc Giang... Nhưng rồi từ Sóng gầm, khi chuyển được vào mạch viết quen thuộc thì quả khó có gì ngăn nổi nhà văn rời quản bút, rời tập giấy, rời chiếc chõng tre và rời cái cặp da căng phồng bản thảo luôn luôn ở bên mình, trong tất cả các chuyến đi trên chiếc xe đạp mini Liên Xô nhỏ con từ Tân Yên về Hà Nội và ngược lại. Một hình ảnh trung thực và sống động về Nguyên Hồng là hình ảnh nhà văn cùng chiếc cặp da to phồng trên chiếc xe mini Liên Xô cũ kỹ; về sau còn có thêm bộ râu đen sum suê một cách bất thường dưới cằm, ở tuổi ngoài năm mươi, trên khuôn mặt đăm đăm mà phúc hậu dường như lúc nào cũng sẵn sàng để rưng rưng nước mắt. Nguyên Hồng - người rất dễ mủi lòng, mỗi lúc phát biểu thường hay dừng lại vài phút để xin được khóc, đó là chuyện hẳn đã nhiều người biết. Nhưng còn bộ râu? Vì sao lại sớm để râu ở tuổi năm mươi thì tôi thấy phải nhờ vào Tô Hoài để nói rõ là, vào thời điểm ấy, những năm bảy mươi, việc kiếm cho ra dăm lưỡi dao cạo là khó, bởi nó là thứ hàng cung cấp không phải lúc nào cũng có, mà Nguyên Hồng thì lâu lâu mới có dịp về Hà Nội, hàng tháng râu không có cái để cạo, vậy thì để râu là cách tốt nhất.

Dừng lại một chút ở hình ảnh Nguyên Hồng với chiếc xe mini Liên Xô, cùng cặp bản thảo to phồng và bao thứ lỉnh kỉnh trong hành trang của ông mỗi lúc từ Tân Yên về Hà Nội hoặc từ Hà Nội trở về Tân Yên, trên con đường dài ngót 80 cây số với nhiều trạm dừng quen thuộc. Nhà văn tuổi ngoài năm mươi còn khỏe đi, thế nhưng cũng đã có lúc bất thường do mệt hoặc buồn ngủ, không kịp chờ đến trạm nghỉ, ông đành dừng xe giữa đường, tựa xe vào gốc cây bên đường, để ngả lưng và ngủ thiếp giữa dòng người xe qua lại. Có lần do phải chuyển sang bên trái đường mới có gốc cây nên khi bừng tỉnh dậy lên xe đạp thẳng, ông bỗng lạc hướng về; cho đến khi thấy hiện ra các nhịp cầu Long Biên nhấp nhô ở phía xa mới biết là mình đang trên đường trở lại Hà Nội.

cau-long-bien-1410-1756983324.jpg
Cầu Long Biên – nơi gắn với những chuyến đi về giữa Hà Nội và Bắc Giang của Nguyên Hồng. Ảnh: Tạp chí Sở hữu Trí tuệ và Sáng tạo

Cũng cần nói thêm, ở tuổi ngoài năm mươi, Nguyên Hồng đã xin nghỉ hưu, sau khi cả nhà, vợ chồng con cái cùng dắt díu nhau kéo từ Hà Nội trở lại ấp Cầu Đen, Tân Yên. Ông chán cảnh căng thẳng nơi thành phố một phần, nhưng cái chính là ông cần tập trung tâm sức, thời gian cho việc hoàn thành bộ Cửa biển, cuốn sách về Hải Phòng, quê hương thứ nhất của ông, về món nợ cho cả một đời văn của ông. Rồi, sau khi xong Cửa biển lại đến với ông món nợ thứ hai là Bắc Giang. Ông lại bắt tay ngay vào bộ sách mới Núi rừng Yên Thế mà tập I có tên Thù nhà nợ nước đã sớm được Hội Văn nghệ Hà Bắc cho in trên một thứ giấy quen thuộc lúc đó, vừa đen thui vừa bở, khiến cho chỉ cần ngấm vào ít giọt nước là cả trang sách cứ tự nhiên mà tơi mủn ra.

Cuốn tiểu thuyết chưa kịp hoàn thành vào năm 1982 là năm nhà văn qua đời. Đọc Nguyên Hồng tôi lại có dịp chiêm nghiệm một điều tưởng là mới mà hóa ra không khó hiểu. Đó là, dẫu trong khổ ải, trong cay cực, trong bất hạnh mà con người vẫn không để tắt, thậm chí còn có khả năng thắp sáng những gì thánh thiện ở trong mình. Toàn bộ thế giới nhân vật Nguyên Hồng cũng tựa như người khai sinh ra nó là Nguyên Hồng đều phải chịu cảnh sống dưới đáy, nhưng ở họ không ai không mang một mầm giống nhân bản để tuôn ra, để ngoi lên. Con người đòi được sống với bản chất người, với tính cách người, thậm chí khi bị dồn vào chân tường, khi bị tha hóa, bị vật hóa đến cùng độ, họ vẫn cứ là người, vẫn đầy khả năng nhân hóa - đó chính là kết luận lạc quan tôi luôn luôn được thấy trên từng sáng tác của cả một đời văn ngót năm mươi năm của ông.

Ở nhận xét này tôi thấy Nguyên Hồng cũng gần gũi với Macxim Gorki - người có chính tên là Cay đắng.

Đời Nguyên Hồng là một đời vất vả; như để bù lại, cái chết lại đến với ông một cách nhẹ nhàng. Ông nằm xuống, trong sự thay đổi động tác, như là để nghỉ ngơi, và như là để ngủ. Ông chưa có chuẩn bị gì cho một cuộc ra đi vĩnh viễn.

Nhớ đến Nguyên Hồng tôi nghĩ đến một người lao động văn chương trong nghĩa khổ hạnh và thiêng liêng nhất.

GS. Phong Lê