Một cuộc đời trong những thử thách như thế, phải biết cách dè sẻn cho đến từng hơi thở, từng cử động của cơ thể, sao lại không thể biết rõ, biết kỹ về mình được? Nhưng điều quan trọng để có thể biết mình lại là phải biết người, biết tầng lớp mình và cộng đồng dân tộc mình. Ông từng phân tích rất hay, rất thuyết phục trong một công trình có tầm khái quát và sức phát hiện rất lớn, đăng trên tạp chí La Pensée, 10-1962: Confuciaisme et Marxisme au Vietnam (Nho giáo và Chủ nghĩa Marx ở Việt Nam). Công trình nói về cốt cách và đặc điểm của lớp trí thức Tây học Việt Nam thế kỷ XX trong so sánh với cha ông là lớp trí thức Nho học của các thời đại cũ; những chỗ mạnh và chỗ yếu, cái đủ và cái thiếu ở mỗi bên; qua đó nhận rõ diện mạo của bản thân mình và tầng lớp mình trong bối cảnh dân tộc và thời đại.
Ông cũng đã phân tích rất hay trong bài Bàn về đạo Nho (1993) về người trí thức Việt Nam trong so sánh với trí thức phương Tây, để thấy phần đạo lý là phần giúp họ gắn nối với truyền thống mà không rơi sâu vào chủ nghĩa cá nhân, vào một nỗi cô đơn không phải là bản thể, mà gắn với hệ quả của ba trăm năm tư bản chủ nghĩa... Tôi ít thấy có công trình nghiên cứu nào hay như thế, gọn rõ như thế giúp cho sự nhận diện chân dung người trí thức dân tộc thế kỷ XX mà chính bản thân ông là một đại diện mang tính điển hình.
Hiểu mình, do sự trải nghiệm một hoàn cảnh đặc thù, do biết đặt mình trong tầng lớp trí thức dân tộc, có nguồn cội từ Nho giáo và đạo lý dân tộc, ông đã hoạt động và thu được các hiệu quả tối ưu trong các giới hạn mà bản thân ông có thể lường được. Trên rất nhiều chiều hướng, nhiều khoảng rộng của hoạt động xã hội và chuyên môn nghề nghiệp, các mục tiêu ông theo đuổi, từ lớn đến nhỏ không hề là chuyện tùy hứng, ngẫu nhiên. Các kết quả ông nhe nhắm đều gần như được tính trước trong các quy định chặt chẽ của hoàn cảnh mà ông là người không lúc nào xa rời.
Cả một đời lao động, hoạt động trong những mục tiêu đã được xác định cụ thể, cũng đã có lúc như vui đùa, ông đã tổng kết về mình, một tổng kết không trong khí hậu trang trọng, thế nhưng đâu phải thiếu sự nghiêm chỉnh:
“Đời tôi là một đời ngây thơ (nhớ rằng ông từng viết một cuốn sách có tên Ngây thơ)... Phần ngây thì tôi vứt nó đi, còn phần thơ thì giữ nó lại... Thơ là rũ bỏ nhung lụa để đi theo Bác Hồ, theo kháng chiến giành độc lập cho dân tộc, cái phần thơ ấy tôi sẽ giữ mãi suốt đời”.
Những tổng kết như vậy thật đích đáng, thật hay? Giá mà ông viết ra được! Tôi tin là ông còn để nhiều hạt ngọc như vậy trong cả một đời dài luôn phấn đấu, không chút mờ nhạt, vô vị của mình.
Kẻ sĩ hiện đại - có biết bao điều để nói chung quanh định danh ấy? Và người xứng đáng được gọi là kẻ sĩ ấy đâu phải là nhiều trong thế kỷ này.
Thế nhưng nếu vẫn cần tiếp tục câu chuyện sơ kết hoặc tổng kết về cuộc đời Nguyễn Khắc Viện, thì ông đang còn dành cho ta lắm bất ngờ. Khi trả lời em trai - nhà văn Nguyễn Khắc Phê - về bài viết nào của ông là có giá trị lâu dài, ông trả lời ngay không chút đắn đo: - “Đó là bài về tập thở”.
Câu trả lời quả rất Nghệ, và rất Nguyễn Khắc Viện, không chỉ ở giọng nghiêm chỉnh của nó, mà còn ở lời nhắn thêm:
“Nhưng nhớ là phải theo thật đúng, không sót một câu nào, chữ nào”. Để hiểu ý nghĩa nghiêm chỉnh của nó, cần nghe thêm sự giải thích của ông:
“Hàng trăm bài viết của mình bàn chuyện thế sự, cho dù in khắp đông tây nam bắc, có khi gây sự và chịu tai tiếng, nhưng rồi cũng qua thôi. Chính trị là thế. Còn bài vè thì đúng với muôn đời, muôn người. Có thể nói đây là luận văn khoa học ngắn gọn về khí công dễ phổ biến nhất, kể cả những người mừ”...
Bài vè đó như sau: “Thót bụng thở ra. Phình bụng thở vào. Hai vai bất động. Chân tay thả lỏng. Êm, chậm, sâu, đều. Bình thường qua mũi. Khi gấp qua mồm. Đứng ngồi hay nằm. Ở đâu cũng được. Lúc nào cũng được”.
Tự ông, ông có lời đánh giá bài vè này như sau: “Có thể nói đây là một luận án, là sự đúc kết vắn tắt, khoa học, dễ phổ biến nhất phương pháp khí công mà thiên hạ đã tốn nhiều giấy mực bàn luận, diễn giải. Nhớ là phải hiểu đúng từng câu, từng chữ. Mình coi bài vè có giá trị vì nó đúng với mọi nơi, mọi thời, mọi lứa tuổi - người già yếu cũng như thanh niên áp dụng đều có ích. Trong thời đại khoa học phát triển, thần kinh con người thường phải căng ra đối phó với các biến cố, với nhịp điệu chóng mặt của công nghiệp hóa, bài vè này càng có ý nghĩa”.
Tôi không nghĩ đây là chuyện ông đùa vui. Mà là chuyện nghiêm chỉnh. Bởi không phải ông nói một lần. Có nhẽ ở tuổi 70, rồi 80, ông đã cân nhắc rất kỹ về nó; ở tuổi ấy, ai cũng có thể và cần tổng kết để biết rõ những gì mình còn có thể để lại cho đời. Trong bài trả lời phỏng vấn, nhà báo hỏi ông: “Cái nào rồi sẽ là tác phẩm để đời?”. Sau khi nêu một số công trình về văn học Việt Nam được dịch và giới thiệu qua tiếng Pháp, sau đó được người nước ngoài chuyển dịch qua các thứ tiếng Anh, Ý, Đức, Tây Ban Nha, ông nói: “Dù vậy, cái gọi là “để đời” thì biết đâu lại là tập sách mỏng về dưỡng sinh, hoặc là chỉ mấy câu vè chỉ dẫn cách tập thở”.
Và một lần khác: “Sau này nếu có gì còn lại của mình thì chỉ có hai điều: Thở dưỡng sinh và phục hồi môn đá cầu”./.