Cách mạng thành công. Thanh Châu tham gia công tác tuyên truyền kháng chiến và công tác thanh niên ở Thanh Hóa. Năm 1949: Nhập ngũ sư đoàn 304. Công tác ở báo Vệ quốc quân, thông tin viên báo Quân đội nhân dân. Hòa bình về Hà Nội, tham gia biên tập tuần báo Văn nghệ, và sau đó là báo Văn, mà có thời bị xem là hậu Nhân văn - do Nguyên Hồng làm Thư ký tòa soạn. Rồi về hưu (không rõ năm nào?) từ báo Văn hay báo Văn học là tờ kế nghiệp báo Văn, khi chưa vào tuổi 50.
Từ sau 1945 Thanh Châu viết ít, hoặc có viết báo mà tôi không biết. Sau hòa bình ông có hai phóng sự rất đậm dấu ấn thời sự: Những ngày trao trả tù binh (1954) và Không rời quê hương (1955). Trong sóng gió của đời sống văn nghệ hồi 1955-1958, với nổi trội là vụ Nhân văn - Giai phẩm, ông có bị vạ lây bởi một phóng sự ngắn: Mua hàng mậu dịch đăng trên Nhân văn số 4. Lúc này chạm vào mậu dịch, tức khu vực kinh tế quốc doanh, do Nhà nước quản lý là chạm đến nhiều phiền toái và khó khăn trong buổi đầu xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa, mà người viết văn có ý thức công dân không thể không quan tâm. Mà nói ra thì rất dễ bị quy là bôi đen, là đánh vào chế độ. Vậy là chỉ bởi một bài phóng sự, hoặc nói đúng hơn, chỉ một bài đăng trên Nhân văn mà Thanh Châu bỗng trở thành người của... Nhân văn.
“Tội lỗi” của Thanh Châu theo tôi hiểu đơn giản chỉ là thế. Hơn nữa, sở dĩ có phóng sự đó, không phải do ông tự ý, mà là do một gợi ý của Lê Đạt, như được nói đến qua một lời thú tội của chính Lê Đạt trong một cuộc kiểm thảo: “Để tấn công quan điểm vô sản chuyên chính của Đảng, tôi vận động Thanh Châu viết bài “Mậu dịch” (tức Mua hàng mậu dịch), và còn dự định vận động Thanh Châu viết về vấn đề nhà cửa” (có lẽ là vấn đề quản lý hộ tịch?). May mà ông chưa có bài thứ hai. Tức có nghĩa ông thuộc loại nhẹ. Bằng chứng là trong danh sách 34 người, gồm “những tên đầu sở”, những “cây bút” đã viết “hoặc nhiều hoặc ít” cho Nhân văn - Giai phẩm, không có tên Thanh Châu - Thật là may cho ông! Thế mà những rắc rối vẫn đến với ông, và gia đình ông, khiến ông ngừng hẳn viết. Một người viết từng là cây bút chuyên nghiệp từ trước 1945, thế mà chưa vào tuổi năm mươi đã phải ngừng viết - đó hẳn là một nỗi đau, tôi tin là thế. Ông đã ngừng viết hơn bốn mươi năm, cho đến ngày qua đời, ở tuổi 95.
Là người đọc Thanh Châu từ rất sớm, tôi biết ông không thôi suy ngẫm và khắc khoải về nghề. Với bản chất khiêm nhường, trung hậu ông tự nguyện làm người đọc, người chứng kiến, như trong lời tâm sự của ông, viết vào năm 2007:
“Lớp trẻ bây giờ viết thật hay. Họ có hạnh phúc hơn những người viết trước Cách mạng. Chắc chắn sẽ còn nhiều tác phẩm xứng đáng với Nhân dân, Tổ quốc ta. Ở tuổi 96 như hiện nay, tôi còn tâm huyết với nghề là điều may mắn”.
Trở lại với cái thời Thanh Châu và các bạn văn của ông cùng sống và viết, tôi lại nhớ đến bài ông viết sau đám tang của Vũ Trọng Phụng - người cùng năm sinh với ông - mà số phận nghiệt ngã đã buộc phải ra đi ở tuổi 27; và đến ngày 20/10/2012 cũng chẵn 100 năm sinh.
“Không kèn, không trống. Đám tang lặng lẽ đi trên đường Ngã Tư Sở - Thanh Xuân (...).
Bây giờ thì Vũ Trọng Phụng không phải ở ngoại ô thành phố để tránh nạn đắt đỏ, khó khăn chật vật... như Tản Đà khi trước nữa. Đã có một thế giới thực yên lành đón đợi anh. Từ nay anh không cần viết nữa. Và, trước cửa căn nhà lẹp xẹp số 73 đường Cầu Mới, nếu có một ngày mà đất nước này biết nhớ ơn những đứa con đã hy sinh cho đất nước, thì con cháu chúng ta sẽ có khi được đọc trên một tấm biển đồng khắc những chữ này:
“Đây là nơi nhà tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng đã từ trần bốn tháng sau thi sĩ Tản Đà, ở gian bên cạnh”.
Những tấm biển, những con đường, những tên trường học, và những cuộc tưởng niệm... đó là việc mà chúng ta hôm nay đã và đang làm cho một thế hệ, mà riêng tôi, tôi muốn gọi là thế hệ Vàng của văn chương Việt Nam hiện đại./.