Thanh Châu: Một đời văn lặng lẽ trong dòng chảy văn học hiện đại (Phần 2)

Thế giới nhân vật truyện của Thanh Châu có phần giống như Ngọc Giao - đó là tầng lớp trung lưu ở đời sống thành thị; những sinh viên, công chức, nghệ sĩ (thường là họa sĩ) với hoạt động nghề nghiệp của họ.
unnamed-1750875133.png
Khát vọng công danh và tình yêu lặng lẽ của tuổi trẻ đô thị – biểu tượng cho những nhân vật trong truyện Thanh Châu. Ảnh: Internet

Là một lứa tuổi trẻ vừa khao khát công danh, vừa săn đuổi tình yêu, nhưng thường vấp phải khó khăn trong mưu sinh, và tình yêu thì không đến được hoặc không trọn vẹn. Nhưng cũng như Ngọc Giao, Thanh Tịnh... Thanh Châu không quay lưng với cuộc sống cần lao của các tầng lớp dân nghèo. Ngay từ tập truyện đầu tay Trong bóng tối. Thanh Châu đã quan tâm đến những kiếp sống vất vả, và những cái chết - chết trong bệnh tật, với thân tàn ma dại bị bỏ quên trong một xó tối của bệnh viện (Trong bóng tối); chết trong hờ hững của khách qua đường trong thân phận một nghệ sĩ mù như “con ve sầu kêu suốt hạ” “chết khô trên cành đa” (Tiếng sáo); chết trong dốc sức đến kiệt sức cho một vai diễn trên sân khấu kịch (Lớp cuối cùng). Hoặc nếu không phải là một cái chết thì cũng là sự lụi tàn của một kiếp sống (Lửa tàn); hoặc cả một đời chịu bủa vây trong hiu quạnh (Hiu quạnh); hoặc mòn mỏi trong buồn khổ vì chồng, vì con (Mòn mỏi)... Đây là những truyện gần với khuynh hướng hiện thực.

Nhưng căn bản Thanh Châu là một cây bút lãng mạn, trong thế giới của tình yêu với những hẹn hò hoặc ước nguyện không thành. Và, dẫu với bất cứ lý do gì, hoặc kết quả như thế nào thì những tình yêu đó, như trong Bó hoa quá đẹp, Cái ngõ tối, Tà áo lụa, Sắc hoa “ti gôn”, Vườn chanh, Chuyện đã rồi... vẫn lưu lại nơi người trong cuộc, người thì một vết sẹo, kẻ thì một kỷ niệm không quên. Những tình yêu mà người theo đuổi, ở một phía, hoặc hai phía, hạnh phúc đến được thì ít mà xót xa, tiếc nuối thì nhiều; tất cả đều ngấm một dư vị buồn, trong dang dở, ngang trái, và cô đơn. Ấn tượng nhất trong kho truyện này là hai truyện ngắn Hoa “ti gôn” và Vườn chanh mà nhân vật chính là một họa sư và một chàng trai trẻ. Những bó hoa ti gôn với sắc hoa thẫm màu máu, hình trái tim vỡ, rất chóng tàn, sáng nào cũng có trong bình hoa của họa sư Lê Chất để giúp ông lưu giữ một mối tình rất bâng quơ mà khó quên và không thành với một thiếu nữ, sớm trở thành thiếu phụ - vợ một công chức cao là Mai Hạnh - đã từng là nguồn cảm hứng cho làm nên bài thơ Hai sắc hoa ti gôn, góp vào kho tàng Thơ mới một tác gia đến bây giờ vẫn còn là ẩn số.

hoa-tigon-2-1024x682-1750875133.jpg
Sắc hoa thẫm màu máu, hình trái tim vỡ – biểu tượng của tình yêu dang dở trong Hoa ti gôn. Ảnh: Internet

Một bài thơ nhờ vào truyện ngắn của Thanh Châu mà xuất hiện, rồi có sức tỏa và sự sống lan xa hơn truyện (Người ấy thường hay vuốt tóc tôi Thở dài trong lúc thấy tôi vui/ Bảo rằng: “Hoa giống như tim vỡ/ Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi”). Còn với người kể chuyện là Thanh Châu, thì những bó hoa, với nhiều loại hoa, sắc hoa thảy đều có số phận riêng của nó, cũng như số phận của người - tất nhiên là người của... trào lưu lãng mạn: Những bông hoa mà các cô hàng tươi trẻ buộc gói nhanh thoăn thoắt, đưa trả khách mua, những bông hoa đó sẽ về đâu? Có những bông sẽ được cắm vào những chiếc lọ pha lê quý giá, đặt trong một gian phòng khách êm đềm, được những bà nội trợ nhẹ tay sắp đặt cho có vẻ dễ thương, để mong làm đẹp lòng người chồng sắp sửa ở những chỗ làm ăn vất vả trở về mệt nhọc. Có những bông sẽ được lọt vào tay những chàng trẻ tuổi, những thiếu nữ mới biết yêu, những bông đó thực là có diễm phúc, vì chúng nó sẽ được nâng niu, trân trọng, quý báu vô vàn, chúng nó sẽ được để bên giường ngủ, trên bàn học - và lúc tàn rồi, người ta cũng không nỡ vứt nó ra ngoài rãnh, người ta sẽ bỏ cánh hoa rơi vào hộp mà cất kỹ dưới đáy bàn, trong góc tủ, để lúc “già” rồi, hay đến lúc hết “yêu nhau” người ta mới lục ra để mà rỏ lệ vào đấy... như trong tiểu thuyết. Cũng có những bông đi ra ngoài nghĩa địa, mang đi bởi những bàn tay gầy, trắng của những người đàn bà góa đương còn trẻ, để đặt lên mộ những ông chồng bất hạnh, và để nhắc cho những ông chồng ấy hiểu rằng: “Em chẳng bao giờ quên anh được... nhưng đời đẹp lắm! Em sắp lấy chồng đây”. Lại cũng có những bông hoa đã an ủi được nhiều linh hồn cô quạnh, linh hồn khắc khoải của những kẻ chung tình đến chết vẫn còn yêu, những kẻ vì yêu mà chết!”.

Vườn chanh - nơi gieo cấy một mối tình trong sương khói huyền ảo và bí ẩn cho một chàng trai trẻ với hai phụ nữ, hai chị em; và đây là lời người em nói về chị: “Biết mình chẳng còn sống được bao lâu, nhưng cũng không muốn bỏ phí một cuộc tình duyên đẹp đẽ, mà có lẽ suốt đời chị tôi không bao giờ được hưởng. Nên chị tôi mới nghĩ ra cách đó: Mượn em thay mình một buổi để giữ cho cả ông và chị tôi một kỷ niệm không đến nỗi nhạt nhẽo, trong một vụ nghỉ hè”...

Nếu có điều cần lưu ý trong cách viết của Thanh Châu đó là khuynh hướng khơi sâu vào tâm lý, tức là con người với đời sống nội tâm thường là phong phú, và có mặt là phức tạp. Bởi đó là những con người thuộc tầng lớp trung lưu trong đời sống đô thị, cách biệt với lao động chân tay, có lối sống tự do và nhiễm khí hậu Âu hóa. Bắt đầu từ Tổ Tâm, hướng triển khai đời sống tâm lý đạt đến độ cao ở Tự lực văn đoàn, rồi trở thành hướng khám phá chung, không còn là sở hữu riêng của trào lưu lãng mạn. Ở giai đoạn cuối của sự phát triển văn xuôi thời kỳ 1930-1945, nó được thực hiện ở tất cả những tên tuổi tiêu biểu như Khái Hưng, Nhất Linh, Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài... Dĩ nhiên là Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Ngọc Giao, Thanh Châu cũng không là ngoại lệ. Cùng với khả năng đi sâu vào tâm lý là một lối văn nhiều hình ảnh và sức biểu cảm; với một ít sắc thái riêng, có khác nhau giữa hai giòng hiện thực và lãng mạn. Với lãng mạn, đó là những câu văn đẹp, trong sự mềm mại, uyển chuyển, tinh tế của chữ và lời - như trích đoạn Hoa “ti gôn” tôi đã dẫn trên. Với hiện thực, đó là sự giàu có đến ngồn ngộn của sự sống, một sự sống với mọi cung bậc, chung cho cả nhân quần, gồm rất nhiều dạng vẻ và kiểu loại. Xét trên tổng thể, thế hệ viết đến nay chẵn 100 năm sinh, như đã dẫn trên, là thế hệ vừa đặt nền tảng, vừa đến được độ cao cho câu văn hiện đại. Đó là câu văn không những đã hết hẳn trạng thái du dương, biền ngẫu; hoặc lổn nhổn phương ngôn, khẩu ngữ; hoặc pha trộn chữ Hán mà hóa thân (hoặc thăng hoa) thành cái đẹp giản dị, tinh chất của lời nói thường. Cái lời nói thường ở câu văn Việt, nó từng là cái đích phấn đấu và ao ước của nhiều thế hệ viết, kể từ Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trọng Quản... ở Nam Kỳ nửa sau thế kỷ XIX đến Tản Đà, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Tường Tam... những năm 20 thế kỷ XX, trước khi bước vào ngưỡng 1930 (hoặc nói đúng hơn là 1932) - ngưỡng chính thức ra đời Thơ mới và Tự lực văn đoàn mà năm 2012 là chẵn 80 năm sinh. Như vậy là phải ngót hai phần ba thế kỷ cho câu văn Quốc ngữ, tức câu văn Việt đến được với sự hoàn thiện vẻ đẹp tuyệt vời của nó, vào thời 1930-1945; một vẻ đẹp vẫn cứ giữ nguyên ý vị và hương sắc của nó cho đến hôm nay, qua đóng góp của nhiều tên tuổi đứng ở vị trí đầu nguồn, trong đó gồm cả Thanh Châu.../.

GS. Phong Lê