Từ trạng thái chết mòn của một thế hệ trí thức, và từ những cái chết thật vì đói hoặc vì khùng điên của người nông dân một vùng quê, Nam Cao đã đón nhận Cách mạng tháng Tám thật sự như một cuộc đổi đời. Nhà văn mảnh khảnh, cao gày, dáng thư sinh, với bản tính rụt rè, ít khi nói to đã tham gia gần như đủ đầy tất cả những hoạt động xã hội của làng quê và của đoàn thể - từ là Chủ tịch xã, làm báo, viết tin, tham gia đoàn quân Nam tiến, rời quê ra Hà Nội, rồi lên Việt Bắc, ở rừng, làm báo Cứu quốc, về Hội văn nghệ, đi chiến dịch Biên giới, rồi vào vùng địch hậu Khu Ba. Ngót 6 năm cho một hành trình cùng nhân dân, từ nông thôn ra thành thị, từ miền xuôi lên miền núi, cùng bộ đội và dân công, với vũ khí vẫn chỉ là ngòi bút và trang viết - những trang viết gắng theo kịp những chuyển động muôn mặt của sự sống, và là một sự sống gắng được soi nhìn bằng một đôi mắt mới, nên rất sớm chuyển được vào đường ray cách mạng. Cách mạng, như chính một tên truyện của Nam Cao in trên Tiên phong số 18 (9-1946), với dòng kết thúc: “Cách mạng! Mày gây va chạm và chém giết, nhưng chính mày lại mở lối cho con người tiến lên hòa bình”.
Sứ mệnh dựng xây, tạo nên cái mới từ trong lầm than, cũ nát của chế độ cũ luôn luôn là mục tiêu của Nam Cao qua nhiều trang bút ký, nhật ký, ghi chép như Đường vô Nam, Người Việt mới, Bốn cây số cách một căn cứ địch, ở rừng, Vài nét ghi qua vùng vừa giải phóng... Đồng thời là sự soi xét lại kỹ lưỡng con người mình trong đối chiếu với sự sống của quần chúng để loại bỏ dần những ủy mị, bi quan không dễ dứt bỏ ở một con người giàu sự sống nội tâm và cả nghĩ như Nam Cao. Và, khi ngòi bút đã là vũ khí thì đối tượng viết trước hết phải là cho số đông, những người còn chưa biết chữ hoặc đang thanh toán nạn mù chữ, cũng có nghĩa là phải hy sinh một phần nghệ thuật. Làm báo trong những ngày “ở rừng”, người duyệt bài đầu tiên của Nam Cao là chú giao thông người Thổ có tên Mộc. Bản thảo Chuyện biên giới viết xong ngay sau khi chiến dịch kết thúc, Nam Cao tự nguyện cắt bỏ từ hàng trăm trang còn dăm chục trang cho gọn gàng, dễ đọc.
Viết, và viết - Nam Cao không ngại bất cứ mọi đặt hàng nào của đoàn thể. Viết sách địa lý phổ thông các nước châu Âu, châu Á, châu Phi. Viết bút ký Định mức và kịch Đóng góp phục vụ chính sách Tạm vay và Thuế nông nghiệp. Viết Hội nghị nói thẳng để phục vụ cho công tác tuyên truyền trong quân đội...
Thế nhưng tận trong thâm sâu, Nam Cao vẫn nuôi mơ ước viết được một cái gì cho xứng với nghề nghiệp mình theo đuổi. Mơ ước ấy cũng đã một lần Nam Cao chạm được vào nó. Đó là mấy ngày Tết đầu 1948, nơi một làng Mán heo hút ở Vàng Kheo, để “cho đỡ nhớ”, Nam Cao viết xong rất nhanh truyện ngắn Tiên sư anh Tào Tháo. Cũng vẫn là chuyện mình, chuyện của anh nhà văn xưng “tôi” có tên Độ. Nhưng có khác với những Thứ, Điền, Hộ trước đây (hoặc “ngày xưa”), Độ bây giờ có một “đôi mắt” mới để đối thoại một cách e dè, khiêm nhường, không chút lên giọng với một bạn văn rất quen thuộc của mình trước đây là văn sĩ Hoàng.
Nhiều năm về sau, sau khi truyện được đăng trên Tạp chí Văn nghệ (số 3-1948) với tên mới là Đôi mắt, truyện này được giới nghiên cứu và giảng dạy văn học xem là một “tuyên ngôn nghệ thuật” của Nam Cao; dẫu với cái tạng quen thuộc của mình, ngay ở truyện này, theo tôi nghĩ, Nam Cao cũng không hề có ý định... tuyên ngôn với bất cứ ai.
Trở lại những ngày đầu cách mạng, trong bề bộn bao nhiêu việc lớn, Nam Cao bỗng xuất hiện trong một truyện ngắn có tên Mò sâm banh được viết rất nhanh và in ngay trên Tiên phong số 2 (12-1945). Đây là một trong số các kiệt tác truyện ngắn Nam Cao, ghi nhận một chuyển đổi rất mới của đề tài. Đó là truyện về một người nông dân đầu tiên xuất hiện trong bối cảnh... thành phố. Ở đó, trong vai đầu bếp cho một ông chủ Tây lẳng lặng, không lời (bởi cả hai không có phiên dịch), anh ta đã đánh mất mạng sống của đứa con trai trong bể nước chỉ vì để rơi một chai sâm banh của chủ... Hơn hai năm sau là sự xuất hiện của Đôi mắt, cũng được viết rất nhanh, ghi nhận một chuyển đổi quan trọng trong quan niệm nghệ thuật. Và, sau Đôi mắt là một ấp ủ đến nung nấu cho một tiểu thuyết về chính làng quê Vũ Đại của mình, trên một bản thảo đã hai lần bị Nam Cao xé bỏ. Chính trong tâm thế đó mà có chuyến công tác “định mệnh” vào cuối tháng 11-1951, khiến Chúng ta mất Nam Cao; như tên một bài viết thật cảm động của người bạn thân thiết nhất của ông - Tô Hoài.
Thuộc trong số người viết văn sớm hy sinh cho Tổ quốc, và nếu chỉ tính thế hệ thành danh trước 1945 thì Nam Cao là người duy nhất, hy sinh ở tuổi đời 36, và tuổi nghề chỉ trên 10 năm. Mười năm - một sự nghiệp gắn nối hai giai đoạn trước và sau 1945; cả hai kết thành một phù điêu bất hủ trong lịch sử văn chương Việt hiện đại./.