Nguyễn Khắc Viện: Người bác sĩ không hành nghề, nhưng chữa lành tâm hồn một dân tộc (Phần 2)

Trong con người hom hem vì bệnh trọng và sức yếu lại là một người rất ham mê thể thao. Một ý chí và một niềm ham say luôn luôn dồi dào, không nản mỏi trong suốt cuộc đời ngoài tuổi 80 của mình.
nguyen-khac-vien-vanvn-1751820189.jpg
Nguyễn Khắc Viện – bác sĩ tốt nghiệp Y khoa Hà Nội, sang Paris tiếp tục học chuyên ngành Nhi với mục tiêu giành bằng bác sĩ nội trú danh giá. Ảnh: Hội nhà văn Việt Nam

Cứ thế mà mở rộng dần sự tìm hiểu và nhận diện chân dung Nguyễn Khắc Viện - một chân dung với hành trang và sự nghiệp không thật giống với nhiều người. Con một vị quan lớn có học vị Hoàng giáp (đệ nhị giáp tiến sĩ) và hàm Hiệp tá đại học sĩ; có ba bằng tú tài; đã tốt nghiệp đại học Y khoa Hà Nội, lại sang Pháp học tiếp khoa Nhi Đại học Y khoa Paris nhằm mục tiêu giành cho được bằng bác sĩ nội trú là loại bằng phải mấy chục người mới chọn được một; rồi làm bác sĩ ở bệnh viện lớn Trousseau... Bất ngờ bị bệnh nan y, coi như vào sát cửa tử, thế mà bằng ý chí và sự thông minh mà thoát hiểm... (Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam... cùng thế hệ ông đã phải ra đi ở tuổi ba mươi vì căn bệnh này). Thế nhưng sau mười năm ở Viện dưỡng lao Saint Hilaire du Touvet, trở về đời, ông lại không hành nghề bác sĩ mà vào Đảng Cộng sản Pháp năm 1949, rồi tham gia hoạt động xã hội trong phong trào yêu nước của Việt kiều ở Pháp trên hơn mười năm. Tất cả những chuyện đó trước đây tôi chỉ mới được nghe, mãi sau này tôi mới được hiểu, khi ông về nước và cho ấn hành cuốn bút ký Paris - Hà Nội (1963). Từ đây tôi mới có dịp quen dần với Nguyễn Khắc Viện trong tư cách một nhà văn hóa, với vốn tri thức rộng về khoa học xã hội và nhân văn, về văn hóa và văn chương học thuật dân tộc, trên cương vị Tổng biên tập hai tờ báo lớn trong lĩnh vực đối ngoại là Le Courrier du Vietnam và Etudes Vietnamiennes, rồi Giám đốc Nhà xuất bản Ngoại văn, người chủ biên bộ sách lớn Anthologie de la Littérature Vietnamienne bằng tiếng Pháp 4 tập, trên 2000 trang, cùng các cuốn về cổ sử và sử hiện đại Việt Nam, về Việt Nam - Tổ quốc tìm lại (Vietnam - Patrie retrouvée) do ông viết bằng tiếng Pháp và cả tiếng Việt...

Lại còn bản dịch thật xuất sắc của ông về Truyện Kiều ra Pháp ngữ. Đó cũng là cả một câu chuyện dài. Như sau này tôi được biết, cho đến đầu những năm sáu mươi, ông đã có quá trình nghiền ngẫm cho một bản dịch Truyện Kiều ra Pháp ngữ ngót mười lăm năm. Thế nhưng khi có lời đặt hàng của người biên tập, ông lại tiến cử Tiến sĩ Phan Nhuận là người đã dịch rất thành công Nhật ký trong tù. Chỉ sau khi Phan Nhuận mất, ông mới nhận lời dịch Kiều. Và như ta biết, bản dịch Kiều, bốn lần tái bản của Nguyễn Khắc Viện là bản dịch rất sát, rất thoát, rất hay, phù hợp với quan niệm của ông: Phải lột cho được cả ý, tứ và văn, “lấy văn Pháp làm chuẩn, chứ không trói buộc vì vần... Lúc dịch, tôi thường hình dung ra trước mắt mình có một bạn Pháp đang nghe”... Bản dịch Truyện Kiều của Nguyễn Khắc Viện đã góp phần tạo căn cứ cho Hội đồng hòa bình thế giới công nhận Nguyễn Du là Danh nhân văn hóa thế giới, nhân kỷ niệm 200 năm sinh của nhà thơ lớn năm 1965; và cũng chính trên bản dịch đó cùng các bộ hợp tuyển thơ văn Việt Nam do ông chủ trì mà Giải thưởng lớn về Pháp ngữ đã được dành cho ông.

Tóm lại, có thể nói, vào thời điểm những năm sáu mươi, khó có ai khác ngoài Nguyễn Khắc Viện, với sự từng trải, với các mối quan hệ rộng rãi với bạn bè quốc tế, và với uy tín cá nhân, thực hiện được một khối lượng công việc lớn như thế, để giới thiệu vốn văn hóa dân tộc ra nước ngoài, giúp cho người ngoài hiểu dân tộc Việt Nam. Một sự hiểu biết thật cần thiết trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh và thế giới chia làm hai phe; không phải ai trên thế giới cũng có điều kiện hiểu được và hiểu đúng về Việt Nam, một Việt Nam không chỉ anh dũng trong chiến đấu mà còn có một chiều sâu, một bề dày về văn hóa và văn hiến.

danhghen1-1607144572641351900704-1751820351.webp
Bản dịch Truyện Kiều ra Pháp ngữ của Nguyễn Khắc Viện – sau 15 năm thai nghén – góp phần giúp UNESCO công nhận Nguyễn Du là Danh nhân văn hóa thế giới. Ảnh: Internet

Thế nhưng ấn tượng sâu sắc ông để lại trong tôi có dễ không bao giờ quên được - kèm với sự kính trọng và ngưỡng mộ: Ấy là cốt cách một trí thức xứ Nghệ, một kẻ sĩ thế kỷ XX. Một trí thức, một kẻ sĩ đích thực trên cả hai phương diện: Kiến thức và nhân cách, theo quan niệm và mong ước của mọi người. Nói thực công bằng: Không phải ông chiếm được lòng yêu mến của bất cứ ai. Bởi ông luôn luôn là người có chính kiến riêng và việc theo đuổi chính kiến đó là rất kiên trì, chừng nào lòng tin vào chính kiến riêng là chưa thay đổi. Còn là bởi lẽ cách sống của ông không phải ai cũng có thể chọn để “làm gương” được, vì đâu phải ai cũng có dịp trải nghiệm những thử thách đến như ông; không nói đôi nét đặc thù của người xứ Nghệ - gọi là “gàn” cũng được, mà ông vẫn giữ, dẫu ngót ba mươi năm ông xa quê, sống ở trung tâm châu Âu hiện đại.

Trong tư cách kẻ sĩ, Nguyễn Khắc Viện theo tôi, cả một đời là nhập cuộc. Tôi chưa thấy ông “xuất thế”, bỏ cuộc, trong tâm thế thất bại, hoặc “đi tư” - chữ dùng của ông, trong bất cứ hoàn cảnh nào, ngay trong những tình huống gieo neo nhất. Mười năm ở Viện điều dưỡng lao Saint Hilaire du Touvé (1942 - 1951), sau khi đã cắt hết phổi phải, lại cắt tiếp một phần ba phổi trái cùng tám xương sườn, ông khổ công tìm đọc rất nhiều loại sách để đến với phép dưỡng sinh, theo lối thư giãn bằng thở và khí công, cùng với triết học của nó gồm cả Thiền và Yoga Ấn Độ nhằm tự chữa bệnh cho mình. Lại vừa tập trung học chữ Hán và thâm nhập kỹ lưỡng vào thế giới Nho giáo, theo lối riêng của ông qua Tứ thư, Đường thi, Chinh phụ ngâm... Hóa ra cậu ấm con nhà tông, sớm làm ông đồ Tây nên chưa kịp tinh thông chữ Hán và đạo Nho ở tuổi ấu thơ. Lại vừa thâm nhập vào chủ nghĩa Marx và tìm ra sự kết hợp giữa triết học Marx với đạo lý “tu tề trị bình” của Nho giáo trong xử thế và tu thân... Ra viện, ở tuổi 40, với cơ thể hom hem, thiếu thở, ông dấn thân ngay vào các hoạt động chính trị vì nền độc lập của dân tộc. Ở tuổi năm mươi, sau khi về nước, ông chuyển nhanh sang hoạt động văn hóa, nhằm tạo nhịp cầu vững chắc gắn nối Việt Nam với thế giới trong nửa sau thế kỷ XX. Tuổi ngót bảy lăm, ông thuộc số người sớm nhất nồng nhiệt đón chào công cuộc đổi mới và khí hậu dân chủ hóa đất nước. Và vào tuổi tám mươi, ông dồn toàn bộ tri thức về khoa học nhân văn, cùng gần hết món tiền thưởng 40.000 phờ răng (ngót một tỷ đồng Việt Nam) để xây dựng Trung tâm N. T. Gắn bó với các mục tiêu lớn, nhưng ông cũng là người biết tiến lui trong đó để có thể có được sự ung dung chủ động: “Thời thế biến chuyển, tôi có thay đổi chính kiến, nhưng không hề thay đổi đạo lý” như cách ông nói. Đạo lý ở đây là cốt cách, nhân cách làm người. Trên cái gốc đạo lý ấy mà ứng xử, để biết rõ các giới hạn phải dừng, và các mục tiêu có thể đạt được.

Từ góc độ này mà xét thì có thể nói Nguyễn Khắc Viện là người rất biết mình - biết người. Biết mình, bởi đó chính là người đã gần như một trăm phần trăm kề bên cái chết mà trở lại được với sự sống; hơn thế, còn là một sự sống dài đến ngoài tuổi tám mươi. Biết mình, bởi người như ông, sống được đã là “lãi” lắm, lại còn sống một cuộc sống không chỉ có ích cho bản thân mà còn khiến người đời kính trọng và ngưỡng mộ./.

GS. Phong Lê