Truyện làm cho Nam Cao rất nổi tiếng, thậm chí làm nên thương hiệu Nam Cao sau này, đó là Chí Phèo, viết năm 1941, mang tên cái lò gạch cũ, khi tác giả 26 tuổi. Cái lò gạch cũ nằm trong một chùm truyện gửi đến Nhà xuất bản Đời mới, suýt bị bỏ quên trong bồ rác, may được Vũ Bằng moi ra, đọc từ dòng đầu đã thấy lạ, liền đọc luôn một hơi, rồi quyết định cho đưa nhà in, với cái tên mới là Đôi lứa xứng đôi, kèm một lời tựa của Lê Văn Trương; một lời tựa rất ngắn mà nói rất hay, rất trúng đặc sắc của tác giả. Thế nhưng từ khởi đầu may trong rủi ấy, hành trình viết của Nam Cao vẫn rất lận đận, dẫu nhiều chục truyện ngắn vẫn lần lượt được in trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc Chủ nhật. Xen với truyện ngắn là một số truyện dài như Ngày lụt, Cái bát, Cái miếu, Một đời người phải bán đứt bản quyền cho các Nhà xuất bản để sớm có tiền, mà vẫn không được in, rồi đành để mất. Chỉ riêng Truyện người hàng xóm là được đăng tải trên Trung Bắc Chủ nhật từ tháng Tư đến tháng Chín - 1944. Còn tiểu thuyết Sống mòn “viết xong tại Đại Hoàng ngày 1-10-1944”, như được ghi ở cuối sách, thì đương nhiên là không thể in; rất có thể cũng sẽ chung số phận với các tiểu thuyết khác nếu không được Tô Hoài giữ hộ và mang theo trong ba lô lên Việt Bắc; rồi phải chờ đến năm 1956, sau khi Nam Cao mất 5 năm mới được in ở Nhà xuất bản Văn nghệ.
Một đời văn có thể xem là lặng lẽ, chưa lúc nào tự thỏa mãn và yên tâm, hoặc tự tin về mình - một tâm thế viết rất khác với nhiều bạn văn cùng thời, không kể Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng mà ngay cả với Tô Hoài - người kém ông 5 tuổi, nhưng vào nghề lại may mắn hơn ông. Bằng chứng là Nam Cao không có tên trong bộ sách Nhà văn hiện đại, gồm 79 người, của Vũ Ngọc Phan. Bằng chứng là trong Bản tự thuật Nam Cao gửi Ban tổ chức của Hội văn nghệ Việt Nam năm 1950 có một dòng: “ trước 1945 không xuất bản được tác phẩm nào đáng kể”.
Rồi sau đó chỉ hơn một năm là chuyến đi công tác vào vùng hậu địch Liên khu Ba, trong Đoàn cán bộ Thuế nông nghiệp, bị địch phục kích; cả mấy người cùng bị bắn và dồn vào một cái hố chôn chung; phải 46 năm sau thi hài mới được đưa về làng quê Đại Hoàng - một tên làng đã vào văn Nam Cao mà trở nên nổi tiếng: Làng Vũ Đại.
Như vậy, nói Nam Cao là nói một số lượng trang viết không nhiều, so với các bạn viết trước và đồng thời với ông... Cái đã được in gồm khoảng ngót 60 truyện ngắn đăng tải trên báo, một số trong đó được gom vào hai tập trước 1945, là Đôi lứa xứng đôi (Nxb Đời mới; 1941), Nửa đêm (Nxb Cộng lực; 1943); và sau 1945 là Cười (Nxb Minh Đức; 1946); 8 truyện viết cho thiếu nhi (nay chỉ mới sưu tầm được 3); một truyện dài chỉ mới được đăng tải trên báo trước 1945; dăm truyện ngắn cùng trên một chục bút ký, nhật ký, ghi chép viết sau 1945. Cho đến ngày hy sinh, có thể nói Nam Cao chưa được hưởng những gì gọi là hào quang, hoặc vinh quang của nghề. Phải sau khi qua đời, với bài Điếu văn của Nguyễn Huy Tưởng đọc trong Lễ truy điệu ngày 21-12-1951; và bài Nam Cao của Nguyễn Đình Thi viết tháng 2-1952 đăng trên Tạp chí Văn nghệ; rồi tiếp đó là hai hồi ký của Tô Hoài in trên báo Văn nghệ - năm 1956 thì tổn thất về Nam Cao mới thật sự thấm thía không chỉ trong giới nghề nghiệp mà là cả công chúng đông đảo. Cũng từ đây, qua Sống mòn lần đầu được in, năm 1956, qua Chí Phèo - sau lần in thứ hai năm 1957, và nhiều chục truyện ngắn trên các báo lần đầu được sưu tầm và gom lại trong hai tập Truyện ngắn Nam Cao (Nxb. Văn hóa; 1960) và Một đám cưới (Nxb. Văn học; 1963) thì giới nghiên cứu, phê bình và bạn đọc rộng rãi mới có cơ hội nhận diện một gương mặt tác gia văn học xuất sắc trong dòng văn học hiện thực trước 1945. Một tác gia thực sự có gương mặt riêng, để không những không bị khuất trong bóng rợp của những người đi trước, mà còn tự mình xác lập một vị thế mới; vị thế, theo tôi - đó là sự tiếp tục đưa lên đỉnh cao và kết thúc vẻ vang trào lưu văn học hiện thực 1930-1945.
Giá trị Nam Cao được khẳng định trước hết qua những truyện ngắn viết về làng quê Việt Nam những năm tiền cách mạng qua một nghệ thuật viết không hề lặp lại dấu ấn của tất cả những bậc tiền bối, gồm không chỉ các tác gia của Tự lực văn đoàn như Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam, mà cả những tên tuổi lớn của trào lưu hiện thực như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng. Đúng như lời một nhân vật của chính tác giả: Cái nghề văn kỵ nhất là thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào. Tựa như A. Chekhov trong văn học Nga phải vạch ra một lối đi mới sau các đại thụ tỏa bóng rợp cuối thế kỷ XIX như L. Tolstoy, F. Dostoyevsky. Ngay từ những truyện đầu tay Nam Cao đã rất có ý thức đem lại một nhận thức mới về người nông dân Việt trong bối cảnh làng quê đang trong một quá trình băng hoại theo hai hướng bần cùng hóa và tha hóa, nhưng tự trong căn rễ vẫn bảo lưu một dòng chảy làm nên gương mặt văn hóa, phong tục, đạo lý dân tộc trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Mỗi truyện ngắn Nam Cao như Một đám cưới, Một bữa no, Lão Hạc, Dì Hảo, Tư cách mõ, Mua danh, Đòn chồng, Rửa hờn, Rình trộm..., không chỉ là một lát cắt tươi rói của cuộc sống mà còn là những chạm khắc rất ấn tượng về những chân dung người làm nên gương mặt dân tộc một thời, thời đứng trước hai chuyển động lớn - đó là sự bần cùng hóa với những cái chết, chủ yếu là chết đói như một tiên báo cho thảm cảnh hai triệu người chết trong năm Ất Dậu; và mặt khác, là một khát vọng thoát ra khỏi mọi bủa vây dầy đặc của một sự sống đang trong… chết mòn: “Chết mà chưa làm gì cả; chết mà chưa sống”./.