Còn Nguyễn Huy Tưởng thì không bằng lòng với mình, với riêng mình, ngay sau ngày đất nước có hòa bình. Những thức nhận đến sớm như vậy, quả có khía cạnh rất đáng cho ta suy nghĩ về Nguyễn Huy Tưởng và về một chặng đường dài của nền văn học mới mà Nguyễn Huy Tưởng đã phải từ biệt quá sớm. Nhưng nghịch lý của sự chịu đựng và sức sáng tạo ở Nguyễn Huy Tưởng vẫn cứ là điều làm ta kinh ngạc và cảm động.
Cái nhìn bi quan và nghiêm khắc này về mình, những băn khoăn và đau khổ nội tâm trong bối cảnh các cuộc đấu tranh tư tưởng diễn ra căng thẳng hồi 1956 - 1958, trên miền Bắc, không ngăn cản nhà văn tiếp tục sáng tạo theo cái nghiệp của nghệ sĩ, tựa như nhiều nhân vật của ông. Tiểu thuyết Bốn năm sau là kết quả nhanh chóng của một chuyến đi; nhà văn tuy cũng tỏ ra quan tâm trước các dư luận khen chê cuốn sách, nhưng xem ra các kết quả thu được vẫn chưa phải là điều làm ông thật sự vui mừng. Mạch sâu những trăn trở của ông vẫn cứ là Sống mãi với Thủ đô như một sự tiếp tục và mở rộng những gì ông ấp ủ, kể từ Vũ Như Tô... Thế nhưng căn bệnh hiểm nghèo đã ập đến vào lúc bản thảo lần thứ hai trên năm trăm trang của tập I vừa kịp được ông kiên nhẫn viết lại, với những ngổn ngang trong sự đặc tả ba ngày đầu cuộc kháng chiến của quân dân Thủ đô, với bao kịch tính, là nghịch cảnh, là tâm trạng, là nỗi niềm của con người...
Cũng như nhiều truyện và kịch trước đây, trong Sống mãi với Thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng vẫn tiếp tục chọn Hà Nội làm bối cảnh hoạt động cho thế giới nhân vật của mình. Nhưng lần này có khác trước, lần này là một Hà Nội “đa thanh”, phức tạp và nhiều vẻ. Một Hà Nội của nhiều Hà Nội. Hà Nội phù hoa. Hà Nội thượng lưu. Hà Nội lao động. Hà Nội lầm than. Hà Nội của mọi tầng lớp người... Ngòi bút Nguyễn Huy Tưởng vẫn sở trường trong việc đi sâu vào những diễn biến của tâm trạng và thái độ của mọi tầng lớp trung gian Hà Nội; và nhờ ở một năng khiếu quan sát có tài, Nguyễn Huy Tưởng đã nắm được những đặc điểm riêng của cuộc kháng chiến ở Hà Nội, để gợi lên một thứ không khí riêng, không khí Hà Nội, cho thiên tiểu thuyết lớn nhất của mình.
Miêu tả Hà Nội trong vẻ toàn vẹn và phức tạp của nó, Nguyễn Huy Tưởng đã có những cố gắng lớn để mở rộng thế giới nhân vật. Không chỉ sắc sảo trong quan sát và phân tích những nhân vật thuộc các tầng lớp trung lưu, Nguyễn Huy Tưởng còn hướng tới nhiều tầng lớp nhân dân lao động Hà thành như cô gái bán hoa Ngọc Hà, mẹ Thắng bán xôi chè, Dân - thợ nguội, Sơn - thợ xẻ, Quý - tài xế, Hai - chữa xe đạp... Những con người thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau đó đã tham gia vào cuộc kháng chiến của Hà Nội một cách khỏe khoắn, tự nhiên, vì cuộc đời họ nói chung đã phải trải nhiều cực khổ. Trong lớp quần chúng cơ bản, Nguyễn Huy Tưởng chú ý những công nhân ưu tú, những cán bộ lãnh đạo phong trào như Dân, Quốc Vinh, Nguyễn Gia Định là lực lượng nòng cốt, tiêu biểu cho tinh thần sống chết với Thủ đô, chèo chống cho cuộc kháng chiến ở Thủ đô.
Tất cả khối người đông đúc đó đã được nhà văn đặt chung trên một bối cảnh lịch sử, với những vấn đề có quan hệ đến vận mệnh chung của dân tộc. Giáp mặt với quân thù, người Hà Nội thay đổi hẳn tầm thước. Nhiều trang Sống mãi với Thủ đô rạo rực một không khí hùng tráng của sử thi. Đọc truyện, ta khó theo dõi được thời gian, ta bị cuốn đi trong những diễn biến lớn lao, căng thẳng của cuộc đời, tưởng như đã xảy ra hàng năm hàng tháng, nhưng thật ra chỉ có mấy ngày đêm. Không khí loãng tan xao xác dưới những mái trường.
Quang cảnh rạo rực chuẩn bị kháng chiến trên từng khu phố, góc nhà, đến buổi chiều ở vườn hoa Cửa Nam, người Hà Nội vẫn vây quanh một anh thợ nặn, sống nốt quang cảnh yên bình cuối cùng khi chung quanh đã ngột lên mùi tanh giá của chiến tranh. Từng chuyến tàu vội vã. Đêm tản cư. Những buổi chia tay. Vụ thảm sát Yên Ninh. Những trận đánh giằng co, căng thẳng ở Bắc Bộ phủ, ở nhà bưu điện Bờ Hồ... Biết bao nhiêu là sự kiện, là đổi thay, là diễn biến, là xáo trộn! Nhưng thiên truyện cũng thật dồi dào chất thơ. Âm hưởng chung của thiên truyện là âm hưởng lạc quan. Tiếng cười nói, tiếng súng đạn, tiếng trẻ bán báo, rao hàng, tiếng cười ấm áp, tiếng sinh hoạt của đời... bản hòa tấu của nhiều âm thanh khác nhau đó trong truyện, nghe khác hẳn tiếng gõ quan tài bi thảm trong kịch Những người ở lại.
Quả có một đường dây gắn nối từ Vũ Như Tô đến Sống mãi với Thủ đô trong hành trình sáng tạo của Nguyễn Huy Tưởng không phải chỉ do đề tài miêu tả của cả hai tác phẩm ở hai đầu mút cuộc hành trình này đều là Thăng Long - Hà Nội, từ Thăng Long đến Hà Nội, mà còn là một cảm hứng sáng tạo gần như là gắn nổi và xuyên suốt: trầm hùng và bi tráng. Một bi kịch trong âm hưởng trầm hùng qua Vũ Như Tô và một âm hưởng trầm hùng rải thấm trên nhiều bi kịch qua Sống mãi với Thủ đô - đó là sự mở đầu và kết thúc sự nghiệp Nguyễn Huy Tưởng trong không đầy hai thập niên giữa thế kỷ XX.
Nhà văn mất ở tuổi 49 đã mãi mãi để lại trong nhiều thế hệ bạn đọc niềm tiếc nuối một tài năng và một khao khát lớn trên những gì ông để lại; và cả những gì may mắn còn giữ lại được trong 40 tập nhật ký và sổ tay, ghi chép nơi lưu trữ của gia đình; và trong kỷ niệm của bè bạn, người thân. Tôi mong rồi đây, không phải xa lắm, trên các nguồn tư liệu được gìn giữ cẩn thận và thu thập đầy đủ, chúng ta còn có dịp trở lại Nguyễn Huy Tưởng trên một tầng sâu hơn về cốt cách và nhân cách nhà văn và về những gì ông ấp ủ./.