Vũ Đức Phúc – người giữ lửa phê bình văn học suốt hơn nửa thế kỷ (Phần 3 và hết)

Sau hơn nửa thế kỷ gắn bó với nghề, Vũ Đức Phúc về hưu trong lặng lẽ và khiêm nhường. Không danh hiệu, không ồn ào, ông để lại một di sản quý giá: Sự trung thực, lòng tận tụy và niềm đam mê chữ nghĩa suốt cả đời cống hiến cho văn học Việt Nam.
hoang-hon-1762074527.jpg
Buổi chiều đời nhẹ nhõm – khi học giả nhìn lại hành trình đã đi qua với lòng thanh thản. Ảnh: Internet

 

Vũ Đức Phúc về hưu năm 1989 sau hơn 30 năm hoạt động nghiên cứu - lý luận - phê bình ở Viện Văn học. Có người vào nghề như một duyên nghiệp đã định sẵn. Có người như một sự ngẫu nhiên. Khó nói Vũ Đức Phúc dứt khoát ở dạng nào. Điều quan trọng là khi đã chọn nghề, đã vào nghề là tất cả sự chuyên tâm cho nghề - là “máu mê nghề nghiệp”. Trong danh mục tác phẩm của Vũ Đức Phúc, đứng ở vị trí đầu tiên, năm 1957, là một truyện thơ - Thua bạc gán vợ. Những năm về sau, khi đã có tuổi, ông lại say mê kịch, và có lúc ông theo đuổi khá ráo riết một vở kịch lịch sử về nhà Nho yêu nước Nam Bộ: Bùi Hữu Nghĩa. Truyện thơ đã in. Vở kịch chưa diễn. Không biết hồi ký có là thể loại được ông ưa thích hay không; còn nếu thích, tôi nghĩ hẳn ông sẽ có nhiều điều để nói từ một cuộc đời hoạt động xã hội và nghề nghiệp có không ít sôi nổi như ông.

Năm 2015, khi đã ở tuổi 95 không biết có là muộn, hoặc quá muộn cho việc đặt ông viết hồi ký về cái Viện Văn học có quá nhiều tên tuổi quan trọng từng là các bậc thầy hoặc đồng nghiệp của ông và của chúng tôi; cái Viện cho đến thế hệ tôi, vẫn còn biết bao điều muốn nói - để có thể qua đấy mà thấy ít nhiều đời sống văn học dân tộc cho cả một thời... Phần tôi, tôi rất mong được khai thác ở ông - một công việc đáng lẽ có thể làm sớm hơn. Bởi, tôi biết nơi tủ sách kia, và trong ông còn dồi dào bao kiến thức. Sau thế hệ Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Cao Xuân Huy, Hoàng Ngọc Phách, Vũ Ngọc Phan... còn ít người trong Viện có được cái vốn kiến thức đó, như ông. Không kể hàng ngũ Giáo sư, Phó Giáo sư mới được phong từng được ông hướng dẫn. Mà cả lớp trẻ. Nhưng xem ra cũng chưa mấy ai biết cách khai thác cái kho đó, trừ một đôi người thỉnh thoảng có dịp qua lại và trò chuyện với ông.

Nhiều năm về trước, thỉnh thoảng ông nhận việc dịch cho một vài đề tài và viết dăm bài báo khi nổi hứng. Vẫn là ông, người dứt khoát đến rạch ròi trong tranh luận, hết sức kiên trì cái mình cho là đúng. Người khá nổi tiếng ở khu vực phê bình, bút chiến một thời bây giờ vẫn là người có khả năng gây nhiều tranh cãi.

Có vinh dự cùng sống, cùng công tác với Vũ Đức Phúc trên 30 năm; từng được ông hướng dẫn, chỉ bảo, tôi biết ở ông, về nghề nghiệp, không phải mọi chuyện đều hanh thông, và cũng có nhiều thất thiệt ở đời. Chỉ với học hàm Phó Giáo sư năm 1980, trong khi rất xứng đáng là Giáo sư từ rất lâu; không một tôn vinh lớn nhỏ nào cho nghề nghiệp, vào cái thời người người, nhà nhà đua chen vào các Huân, Huy chương và Giải thưởng lớn nhỏ; trong khi vốn học vấn của ông còn rộng và vững hơn bao người mang đủ thứ hàm vị, trong nước và nước ngoài. Mang tiếng là người thích sát phạt, là một người lính gác, thậm chí tôi còn nghe một vài người nói là một cỗ xe tăng, nhưng họ đâu thấy, cái thời nó thế, yêu cầu của thời cuộc là thế; và ông đã phải nhiều lúc xông trận, với thương tích trên mình. Cho đến bảy giờ, thỉnh thoảng đọc một vài công trình hoặc luận án, tôi lại thấy ông thường được nhắc đến với những nhận xét khe khắt. Đó là điều, theo tôi, là không công bình cho lắm, và cũng là không đúng.

Nói chuyện rủi may, khôn dại ở đời thật vô cùng. Xem ra ông có bị oan, và bị thiệt. Nhưng tôi lại nghĩ do cách sống chân tình, trung thực và tốt bụng, không lựa đón, không quay quắt, nên cái may, cái được ở ông vẫn là có. Có trong tình cảm của một số đồng chí, đồng nghiệp và bạn bè chí cốt của ông, không phải chỉ trong ba thập niên ở Viện, mà ngay từ thời trẻ, thuở ông công tác cách mạng ở Gia Lâm, Võ Giàng, Bắc Ninh, trong các cương vị như Chủ tịch Ủy ban kháng chiến thị xã Ngọc Thụy; Chủ tịch huyện Võ Giàng; tỉnh ủy viên, Trưởng Ty tuyên truyền văn nghệ Bắc Ninh... Những bạn bè thuở ấy thường chỉ biết ông là một đồng chí “lão thành cách mạng” chứ ít ai biết ông còn là người khá nổi tiếng trong nghiệp phê bình - nghiên cứu văn học. Có ở tấm lòng biết ơn và sự thủy chung của không ít người thuộc thế hệ hậu sinh đã từng được ông chăm nom, giúp đỡ hết sức chân tình trên đường đời cũng như trong sự nghiệp./.

GS. Phong Lê