Hơn 30 năm hành trình trong đội ngũ hiếm hoi và dường như ít được phát triển của những người công tác nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học, Vũ Đức Phúc là người có gương mặt riêng, không nhòa lẫn.
Nói gương mặt riêng, hoặc phong cách, ở khu vực sáng tác là điều tương đối dễ. Thậm chí là chuyện bắt buộc. Còn trong lý luận, phê bình - đó quả là chuyện khó. Hơn nữa cũng chưa hẳn là chuyện bắt buộc. Cố nhiên trong lĩnh vực phê bình, chúng ta có thể nhận dạng vài ba phong cách nào đó như Đặng Thai Mai, hoặc Hoài Thanh... Nhưng mục đích chính của hoạt động phê bình là nhằm đạt tới sự bình giá khách quan, sức nặng của phê bình là ở sự trình bày các luận điểm. Bạn đọc đâu có yêu cầu quá cao về giọng điệu!
Nhưng nếu phải tạm dùng một khái niệm nào đó để nói về một khía cạnh đóng góp của cây bút lý luận phê bình Vũ Đức Phúc trên 30 năm qua, tính từ cuối những năm 1950 cho đến cuối 1980, tôi muốn nói đến tính chiến đấu - là đức tính, theo tôi là rất cần thiết trong những cuộc giao tranh về tư tưởng thỉnh thoảng lại xuất hiện, hoặc rộ lên trong đời sống văn học miền Bắc những năm cả đất nước sống trong chiến tranh và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh tồn tại của hai phe trên thế giới, được hiểu như là một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai hệ ý thức, hai con đường... Sự kiên định về lập trường, sự nhạy cảm về chính trị, sự thẳng thắn trong thái độ là rất cần cho những cây bút tiên phong. Và bản lĩnh phê bình, trước hết và chủ yếu là sự phân biệt đúng sai, sự không khoan nhượng về nguyên tắc trên các vấn đề về lập trường, quan điểm. Đóng góp riêng của Vũ Đức Phúc cũng như của cả một thế hệ trưởng thành trong hoạt động chính trị rồi mới chuyển sang nghề văn chương - học thuật như ông là ở tính chiến đấu nồng nhiệt đó.
Gương mặt riêng của Vũ Đức Phúc trong đời sống văn học những năm 1960, đến 1980 theo tôi, là ở tính chiến đấu này. Cố nhiên hành trình văn học không phải lúc nào cũng chỉ yêu cầu độc một phương diện là tính chiến đấu và chức năng “xung kích” hoặc “lính gác”. Có lúc phê bình hướng hẳn vào yêu cầu xây dựng, nuôi dưỡng, phát triển cái mới, những mầm non, những tài năng. Có lúc gọi là phê bình, nhưng lại nhẹ về phê và nặng về bình. Sự bình luận cho hay, một cách tinh tế mà bao quát, tỉnh mà mê đắm, nhẹ nhàng mà sâu... cũng là rất cần trong một nền phê bình. Yêu cầu đó cần được giải quyết bằng một sự phân công theo sở trường của từng người, hoặc theo sự mạnh - yếu có khác nhau của các thế hệ. Từ yêu cầu chung đó mà bàn, thì có thể nói, Vũ Đức Phúc không thuộc trong số người làm trọn hoặc mạnh cả hai mặt; và cũng không thuộc diện những người có công phát hiện, biểu dương và nhân lên các mầm non, các tài năng. Một số bài viết theo hướng này của ông, như bài viết về truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tấn, về thơ Hồ Chủ tịch, và thơ Tố Hữu cũng là những bài gợi được nhiều ý tưởng mới, nhưng chưa trở thành mạch chính trong sự theo đuổi của ông.
Trong phê bình, lý luận, Vũ Đức Phúc là người luôn luôn có chủ kiến, có luận điểm. Ông không nói dựa. Ông chủ trương “nói có sách, mách có chứng”. Ông không nói điều gì mình chưa đủ tài liệu. Những bài viết của ông, thường bao giờ cũng có đem lại một lượng tin mới; và đó chính là cơ sở gây hấp dẫn, để bù lại một số sơ hở, hoặc có lúc vụng về trong cách viết của ông. Những ý gắt. Những chữ dùng mạnh, ít tính “văn chương”. Những cách nói có lúc thô mộc. Những lời bình hoặc bàn luận mà như là cãi cọ. Nhưng hãy cứ lướt đi, để đến với cái lõi là luận điểm, khiến cho ta có thể thỏa mãn hoặc cau có, gật gù khoái trá hoặc lắc đầu, chứ ít khi là một sự nhàm tẻ, nhạt nhẽo.
Có điều cần nói thêm, nếu vì lý do gì đó mà bỏ đi những chuyện, những chi tiết “khó chịu” như trên trong chữ dùng, trong ý kiến, trong thái độ, thì sẽ lại không còn tác giả Vũ Đức Phúc như ta bàn ở đây.
Người có chính kiến và kiên trì chính kiến thường là người sẵn có đức tự tin. Nhưng trên con đường “độc đạo” của sự săn đuổi hoặc củng cố chính kiến của mình lại dễ có lúc cực đoan. Điều này chính ông cũng đã tự nhận. Nói chuyện với ông là một sự thích thú, nhưng cũng có lúc nản, mỏi. Phải kiên trì, và đôi lúc phải nén tự ái, nếu không tránh cùng nổi nóng lên với nhau, trong đối thoại với ông là người dường như quyết tâm không chịu thua trong các cuộc tranh luận - bằng bút, cũng như bằng miệng. Sự kiên trì các chính kiến là một đức tính tốt; nhưng đồng thời cũng nên kết hợp với sự uyển chuyển, linh hoạt trước các hoàn cảnh và yêu cầu đã biến đổi. Nếu không, dễ trở nên cứng nhắc. Hệ quả đó không phải không có lúc diễn ra trên một số vấn đề ông thường bàn luận, đánh giá, như về Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, về Thơ mới và văn học lãng mạn trước đây, khiến cho có lúc diễn ra sự căng thẳng, thiếu thuyết phục, hoặc có lúc không chuyển kịp, đón kịp các nhu cầu mới của thời cuộc.
Trong tranh luận, Vũ Đức Phúc là người có thái độ dứt khoát, rõ ràng. Ông không là người lẩn tránh, hoặc lựa gió theo chiều. Cũng không là người úp mở, nhập nhằng, nửa nọ, nửa kia. Ông đòi hỏi sự công bằng, minh bạch; và đòi hỏi mỗi người trong cuộc cũng có thái độ như ông. Nhưng trong cuộc đời, và cả trong học thuật cũng vậy, có lúc cái sai và cái đúng xen cài nhau, và xen cài không theo một trật tự, lớp lang nào cả. Có lúc cái đen và cái trắng không cách biệt nhau một cách rõ ràng, mà tạo nên những khoảng nhờ nhờ, với nhiều sắc độ. Tình hình đó đâu dễ cho ta phân biệt; và sự kiên trì một cách đánh giá, một thái độ cũng dễ trở nên cứng nhắc.
Người thích tranh luận, và thường mong muốn nhanh chóng kết luận về đúng - sai hay - dở; người sẵn sàng chấp nhận sự tranh cãi, và lắm khi có sự “hiếu thắng” ấy, nếu trước đây thường có lúc gây ra các xung đột, thì về sau, khi chuyển dần từ phê bình sang nghiên cứu cũng là người biết điều chỉnh lại các ý kiến đôi khi có màu sắc “cực đoan” của mình. Có thể dùng chữ “phục thiện” để nói về một sự chuyển đổi trong phong cách viết Vũ Đức Phúc, và ít nhiều cả sự thay đổi trong quan niệm của Vũ Đức Phúc trên nhiều vấn đề của lịch sử văn học và lý luận văn học - như trong việc nghiên cứu thơ văn Lý - Trần, đánh giá Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm, Phạm Thái; như về chức năng của văn học; về nhiều tác giả văn học hiện đại... Người có chính kiến, cũng lại là người không định kiến - ít nhất là trên một số vấn đề học thuật. Những ai chưa gần Vũ Đức Phúc, chỉ mới biết ông qua các bài của nhiều chục năm trước đây, không có hoàn cảnh theo dõi sát sinh hoạt văn học, tưởng đâu ông chỉ là một người thích “sát phạt”. Thực ra ông là một người lành. Có lúc vụng, nóng, nhưng mà lành. Nhũn nhặn, dễ gần với những người quen biết, có lúc nổi nóng, nói to, nhưng sau cơn giận bất thường lại trở lại sự mềm mỏng, có phần “co lại” khiến cho số ít người quen biết, gần gũi ông, có lúc khó chịu, bực giận, nhưng vẫn thấy đây là người thẳng thắn, trung hậu, không có thù dai, không hay để bụng. Phải chăng đó là nét nhất quán - vừa như một sự minh họa, vừa như một phía đối lập - để cân bằng trở lại của tính cách Vũ Đức Phúc - nhà phê bình./.