Năm 2015, ở tuổi 95, ông vẫn nhanh nhẹn và khỏe mạnh sau một cuộc mổ - nghi là có trọng bệnh, nhưng may là không phải. Ông vẫn có thể đi lại, trò chuyện với khách quen trong căn nhà quen thuộc ngập đầy sách vở trên các giá, trên bàn và cả trong giường ngủ. Bếp và tủ lạnh có nhiều thức uống và thức ăn. Thấy ông đọc nhiều nhưng ít thấy các bản thảo. Hình như ông vẫn trong tâm trạng chán viết. Vì viết thì gửi cho ai, và đăng ở đâu? Mà cái nghĩ của ông vẫn là cái nghĩ của một người đọc nhiều; của một người đã trải rất nhiều sự kiện lớn của thế kỷ XX; của một vốn hiểu trên nhiều lĩnh vực: Chính trị, tuyên huấn, văn hóa, văn nghệ, và cuối cùng là nghiên cứu văn học.
Gặp ông là trò chuyện, đụng vào đâu cũng có chuyện. Từ chuyện đặt tên khoa học xã hội và nhân văn cho các Viện và các Trường ở ta một cách... vô lối. Đến các thứ chuyện trong đời và trong học thuật... Cứ nghĩ mà tiếc, với cái vốn ấy ông còn viết được nhiều, nhưng thế hệ ông, cái in ra lại được quá ít, vào cái thời in ấn là rất khó. Ở họ, cái nghĩ nhiều hơn cái viết, trong khi bây giờ có không ít người, cái viết thường là mênh mông nhiều trang, nhiều bài, nhiều quyển mà cái nghĩ lại pha loãng. Tôi tin là, nếu có điều kiện viết mà không bị thói quen thôi viết hoặc nản viết làm hỏng đi, chắc ông còn viết được, thậm chí là viết nhiều, tất nhiên là phải để cho ông viết theo cách nghĩ của ông. Còn việc chúng ta có tán thành hay không, hay cần bàn lại, cần bác bỏ điều này điều nọ là chuyện khác. Đã qua rồi cái thời chỉ có một đáp số trong khoa học, được ban phát từ đâu đó; và người thích tranh luận là ông cũng rất chủ quan cho mình là đúng.
Bây giờ thì ông đã khác rồi. Kể từ cuối những năm 1980 khi có hai sự kiện lớn xảy ra làm ông đau đớn, và rồi làm thay đổi không ít quan niệm sống và nghề nghiệp của ông. Đó là năm 1988, vợ ông mất - vợ ông, người bạn đời thủy chung và chăm sóc ông vô cùng chu đáo. Và sau đó, năm 1990, sự kiện thứ hai là Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa tan vỡ. Đối với một chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng của Đảng như ông, người đã viết hoặc chủ trì các cuốn sách như Bàn về các cuộc đấu tranh tư tưởng... Trên mặt trận văn học, Sơ thảo lịch sử văn học 1930-1945...; người đã dịch và viết về Voltaire, Diderot... của Thế kỷ Ánh sáng phương Tây thì sự đổ vỡ này quả là cả một cú sốc lớn.
Lần lượt ở tuổi ngoài 80, rồi ngoài 90, khi các bạn bè thân thiết của ông như Như Phong, Hồ Trúc, Trần Văn Tấn... đã lần lượt qua đời. Thiếu bạn đồng tuế, đồng chí, đồng nghiệp, cuộc đời của ông như hẫng hụt. Chúng tôi, một số anh chị em công tác ở Viện Văn học được ông dìu dắt, hoặc được ông đào tạo, cũng thường qua lại với ông, mỗi năm vài ba lần, vào các dịp như ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11, ngày giỗ vợ ông và ngày Tết...; nhưng như vậy vẫn là quá thưa. Muốn đến với ông nhiều hơn nhưng khó, vì nhà ông ở bên kia sông Hồng, thị trấn Gia Lâm, phải qua cầu; và vì vào cái thời buổi ai ai cũng bận, bận đến tối mặt tối mũi khiến cho ngay mỗi lần thăm ông, cũng không thể ngồi lâu. Dẫu vậy, tình bạn vong niên, tình anh em, tình thầy trò, tình đồng nghiệp giữa ông và chúng tôi, những người có một mái nhà chung là Viện Văn học - nơi ông công tác trong nhiều chục năm, từng tham gia Đảng ủy Ủy ban khoa học xã hội, từng phụ trách nhiều Ban chuyên môn, có thời làm Viện phó và Tổng biên tập Tạp chí Văn học - những tình cảm đó vẫn được lưu giữ, và cũng đã đem lại cho ông ít nhiều niềm vui.
Mỗi dịp sang thăm ông, trong trò chuyện, tôi đều không quên đề nghị ông viết cho một hồi ký về 50 năm xây dựng Viện Văn học, với kỷ niệm về những người như Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Cao Xuân Huy, Hoàng Ngọc Phách, Trần Thanh Mai, Vũ Ngọc Phan, Phạm Thiều, Nam Trân, Đỗ Đức Dục, Nam Mộc, Cao Huy Đỉnh...; về các sự kiện trong đời sống văn học từ 1960 đến thời Đổi mới mà ông là người trong cuộc; về các cấp trên và các bạn cộng tác trong giới nghề nghiệp, cả sáng tác và phê bình... Ông tỏ ra vui, nhưng dường như vẫn chưa tin là công việc có thể triển khai. Bởi viết - chưa bao giờ là một việc dễ, nếu quá lâu đã mất thói quen hoặc mất hứng thú viết. Bởi tuổi tác làm vơi đi cái kho nhớ. Và bởi, viết thì dùng cho việc gì, nhằm mục đích gì? Cần cho ai, có ích cho ai? Công bố ở đâu? Đấy quả là điều tôi phải nghĩ và thuyết phục ông; và thuyết phục những ai rồi có thể giúp chúng tôi giải quyết những băn khoăn đó. Còn về tiền, thì chắc không phải là mối quan tâm quá lớn. Ông có lương hưu cao. Có sự chăm sóc của con cái - ông có sáu con, đặc biệt là mấy cô con gái ở gần. Đông con cháu, nhưng ông vẫn thích sống một mình để được tự do và khỏi phiền lụy chúng./.