Cấp ủy, chính quyền thông qua cơ quan quân sự, cơ quan công an, các ban ngành, đoàn thể... nhanh chóng nắm tình hình, nhận định, đánh giá chính xác âm mưu, đối tượng, lực lượng, thủ đoạn của địch và dự kiến khả năng diễn biến tiếp theo. Trên cơ sở đó, cấp ủy và chính quyền phải kịp thời ra chủ trương lãnh đạo, lựa chọn hình thức, phương pháp đấu tranh phù hợp, chỉ đạo lực lượng công an chủ trì hiệp đồng với các lực lượng vũ trang trên địa bàn triển khai biện pháp trấn áp để dập tắt bạo loạn.
Lực lượng công an là nòng cốt chủ trì phối hợp cùng dân quân tự vệ và một bộ phận bộ đội địa phương nhanh chóng chuyển cấp sẵn sàng chiến đấu, mở rộng lực lượng, chốt giữ và bảo vệ các mục tiêu trọng yếu, phối hợp tiêu diệt lực lượng vũ trang phản động và chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng đối phó với các tình huống nghiêm trọng hơn. Lực lượng các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, dưới sự điều hành của sở chỉ huy thống nhất, cần vận dụng tổng hợp biện pháp chính trị, hành chính kết hợp với biện pháp quân sự để tiến hành chống bạo loạn; tổ chức lực lượng quần chúng đấu tranh vạch mặt kẻ địch, cô lập lực lượng vũ trang phản động; triển khai công tác bảo đảm cho lực lượng vũ trang ta chiến đấu và khắc phục hậu quả bạo loạn. Đối với các trường hợp xảy ra bạo loạn vũ trang có sự hỗ trợ hoặc phối hợp của lực lượng vũ trang từ bên ngoài, cơ quan quân sự dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng và chính quyền địa phương là trung tâm hiệp đồng, chỉ huy thống nhất các lực lượng vũ trang trên địa bàn tiến hành bao vây, ngăn chặn, tiêu diệt lực lượng vũ trang phản động, dập tắt bạo loạn ngay từ trong nội địa; bảo vệ các mục tiêu trọng yếu trên địa bàn và các mục tiêu khác của địa phương; kịp thời khắc phục hậu quả, nhanh chóng ổn định tình hình mọi mặt.
Trong trạng thái khẩn cấp về quốc phòng, là trạng thái xã hội của đất nước khi có nguy cơ trực tiếp bị xâm lược hoặc đã xảy ra hành động vũ trang xâm lược hoặc bạo loạn, nhưng chưa đến mức tuyên bố tình trạng chiến tranh, thì phương thức vận hành nền quốc phòng toàn dân được chuyển hóa sang phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân ở cấp độ cao. Trạng thái khẩn cấp về quốc phòng xảy ra khi ở một hay nhiều khu vực hoặc cả nước, tình hình an ninh chính trị, an toàn xã hội diễn biến rất phức tạp; có nguy cơ địch cấm vận, bao vây, phong tỏa đường biển, đường không, lấn chiếm biên giới, biển, đảo, tập kích hỏa lực hoặc chuẩn bị tiến công xâm lược.
Khi Chủ tịch nước ban bố tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, cấp ủy đảng phải xác định nhiệm vụ trọng tâm, dự kiến chủ trương lãnh đạo, sau đó tiến hành hội nghị ra nghị quyết lãnh đạo chuyển địa phương vào tình trạng khẩn cấp về quốc phòng. Các địa phương thành lập ngay sở chỉ huy tình trạng khẩn cấp về quốc phòng để xác định các biện pháp khẩn cấp cần áp dụng trên địa bàn và xác định kế hoạch ứng phó với tình huống khẩn cấp, khôi phục và ổn định tình hình. Chính quyền các cấp, căn cứ vào nghị quyết của cấp ủy đảng và quyết định của sở chỉ huy tình trạng khẩn cấp, tiến hành triển khai ngay nhiệm vụ cho các cơ quan, ban ngành và tổ chức điều hành thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ. Cơ quan quân sự chủ trì làm tham mưu và là trung tâm hiệp đồng các cơ quan, ban ngành, đoàn thể... tổ chức thực hiện; hiệp đồng với cơ quan Công an để giải quyết các tình huống về an ninh, trật tự.
Khi xảy ra xung đột vũ trang trên biên giới đất liền, các địa phương phải huy động lực lượng tổng hợp, áp dụng biện pháp tổng hợp đấu tranh kịp thời, kiên quyết, khôn khéo để giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia, ổn định an ninh biên giới, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân. Lực lượng bộ đội biên phòng, dân quân tự vệ và bộ đội địa phương kịp thời triển khai chốt giữ các mục tiêu quan trọng, những khu vực địa hình có giá trị quân sự và làm nòng cốt cho nhân dân đấu tranh về chính trị. Cấp ủy, chính quyền địa phương phải lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng ở từng cơ sở tích cực xây dựng lực lượng tổng hợp, thế trận toàn diện, chủ động tháo gỡ vướng mắc, mâu thuẫn nảy sinh trong nội bộ nhân dân, chủ động tiến công làm thất bại âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch ngay từ cơ sở, từ tuyến đầu. Quá trình đấu tranh chống xung đột vũ trang trên biên giới phải quán triệt quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng, chính sách, pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các công ước, thông lệ quốc tế, tập quán, phong tục của từng vùng đồng bào dân tộc trên vùng biên giới để tạo sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi.