Đột phá giáo dục để phát triển nhân lực chất lượng cao - chủ trương từ nghị quyết

Trong  tiến  trình  phát  triển  của  mỗi  quốc  gia,  giáo  dục  luôn  giữ  vai  trò  đặc  biệt  quan  trọng.  Nó  không  chỉ  góp  phần  trực  tiếp  vào  việc  hình  thành  nhân  cách,  bồi  dưỡng  tri  thức  và  kỹ  năng  cho  thế  hệ  trẻ  mà  còn  quyết  định  sức  cạnh  tranh  quốc  gia  trong  dài  hạn. 

Đối với Việt Nam, ngay từ buổi đầu dựng nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Kế thừa tư tưởng đó, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên định quan điểm coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh và hội nhập quốc tế.

Ngày 22 tháng 8 năm 2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Đây là văn kiện có ý nghĩa chiến lược, phản ánh quyết tâm chính trị cao của Trung ương, Tổng Bí thư, Thủ tướng Chính phủ và Thanh tra Chính phủ trong việc đặt giáo dục ở vị trí trung tâm, hướng tới tái cấu trúc toàn diện hệ thống, nâng cao chất lượng và hội nhập sâu rộng. Nghị quyết không chỉ khẳng định tư duy mới trong phát triển giáo dục mà còn đặt ra những mục tiêu cụ thể, gắn với cải cách thể chế, quản trị, tài chính và nhân lực.

dotpha-1758931318.jpg
Nghị  quyết  số  71-NQ/TW, khẳng  định  tư  duy  mới  trong  phát  triển  giáo  dục  mà  còn  đặt  ra  những  mục  tiêu  cụ  thể,  gắn  với  cải  cách  thể  chế,  quản  trị,  tài  chính  và  nhân  lực (Ảnh Tạp chí Đảng cộng sản)

Nghị quyết 71 xác định rõ những định hướng chỉ đạo lớn. Giáo dục và đào tạo phải phát triển toàn diện cả Đức, Trí, Thể, Mỹ, trong đó người học được đặt làm trung tâm, nhà trường là nền tảng và nhà giáo là động lực quyết định chất lượng. Hệ thống giáo dục quốc dân phải đồng bộ, liên thông và bao trùm từ mầm non đến sau đại học. Giáo dục mầm non và phổ thông là nền tảng hình thành nhân cách, phát triển phẩm chất và năng lực. Giáo dục nghề nghiệp giữ vai trò then chốt trong đào tạo lực lượng lao động kỹ năng cao.

Giáo dục đại học là nòng cốt phát triển nhân lực trình độ cao, đào tạo nhân tài, đồng thời thúc đẩy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong hoạch định, định hướng chiến lược và bảo đảm công bằng xã hội về giáo dục, song song với việc huy động nguồn lực xã hội và thúc đẩy hợp tác công – tư. Tổng Bí thư nhấn mạnh yêu cầu đổi mới mạnh mẽ thể chế, khuyến khích sáng tạo, giảm đầu mối, xóa bỏ cấp trung gian quản lý, sáp nhập hoặc giải thể các cơ sở giáo dục đại học không đạt chuẩn, đồng thời xây dựng cơ chế đặc thù, vượt trội cho những cơ sở đào tạo trọng điểm. Thủ tướng Chính phủ cũng nhiều lần khẳng định rằng phải phát triển tự chủ đại học đi đôi với trách nhiệm giải trình, tăng cường kiểm định độc lập và công khai kết quả đánh giá. Thanh tra Chính phủ và hệ thống thanh tra giáo dục có nhiệm vụ giám sát, phòng ngừa tiêu cực, lợi ích nhóm và sai phạm trong tuyển sinh, đào tạo, sử dụng ngân sách, nhằm bảo đảm sự minh bạch và liêm chính của hệ thống.

Những quan điểm trên được cụ thể hóa thành các mục tiêu và nhiệm vụ rõ ràng. Ở bậc mầm non và phổ thông, mục tiêu là phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ từ 3 đến 5 tuổi, phổ cập giáo dục bắt buộc đến hết trung học cơ sở, phấn đấu có ít nhất 85% người trong độ tuổi hoàn thành trung học phổ thông và không có địa phương nào dưới 60%. Ít nhất 80% trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia. Ở bậc giáo dục nghề nghiệp, khoảng 80% cơ sở đạt chuẩn quốc gia, trong đó 20% cơ sở hiện đại ngang tầm các nước phát triển trong khu vực. Giáo dục nghề nghiệp không chỉ đào tạo tay nghề mà còn gắn liền với đổi mới công nghệ, hợp tác doanh nghiệp và đáp ứng nhu cầu thị trường lao động trong bối cảnh chuyển đổi số. Ở bậc đại học, mục tiêu đầy tham vọng là toàn bộ 100% cơ sở giáo dục đại học đạt chuẩn quốc gia, đồng thời thúc đẩy quốc tế hóa chương trình, nâng cao tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ, mở rộng hợp tác nghiên cứu và đào tạo liên kết quốc tế. Đối với đội ngũ giáo viên và giảng viên, chính sách tiền lương và phụ cấp sẽ được cải cách để bảo đảm đời sống xứng đáng, thu hút người tài vào ngành sư phạm. Chuẩn nghề nghiệp giáo viên được hoàn thiện, đi kèm cơ chế tôn vinh và đánh giá minh bạch.

Một trong những chỉ báo quan trọng cho thấy sự quan tâm của Nhà nước đối với giáo dục là tỷ lệ chi ngân sách. Theo số liệu quốc tế, năm 2022 Việt Nam chỉ chi khoảng 2,9% GDP cho giáo dục, thấp hơn mức trung bình toàn cầu là 4,15%¹. Trước đó, giai đoạn 2009–2013, Việt Nam từng duy trì tỷ lệ chi ở mức 5,1–6,0% GDP². Mặc dù tỷ lệ chi ngân sách dành cho giáo dục so với GDP có xu hướng giảm, nhưng trong cơ cấu tổng chi của Chính phủ, giáo dục vẫn duy trì khoảng 21–22% trong nhiều năm gần đây³. Thực tế này đặt ra yêu cầu phải gia tăng nguồn lực đầu tư, đặc biệt cho cơ sở vật chất, trang thiết bị và chuyển đổi số. Bên cạnh việc gia tăng chi tiêu, cần chú trọng phân bổ hiệu quả, tránh dàn trải và ưu tiên cho những lĩnh vực then chốt như công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, hệ thống học liệu mở và hạ tầng số trong trường học. Chuyển đổi số không chỉ là công cụ hỗ trợ mà còn là phương thức làm thay đổi toàn bộ mô hình dạy – học, giúp người học có thể tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi, đồng thời tạo điều kiện để Việt Nam bắt kịp xu thế giáo dục toàn cầu.

Khi so sánh quốc tế, có thể thấy nhiều kinh nghiệm đáng tham khảo. Singapore là hình mẫu cải cách linh hoạt và hiệu quả. Các trường polytechnic và viện giáo dục kỹ thuật của quốc gia này cung cấp chương trình gắn chặt với nhu cầu thị trường lao động. Năm 2017, Singapore đã tái cấu trúc UniSIM thành Singapore University of Social Sciences, nhấn mạnh giáo dục suốt đời và mở rộng cơ hội học tập⁵. Đây là minh chứng rõ ràng cho việc một quốc gia nhỏ bé nhưng kiên trì với triết lý “giáo dục hướng đến thực tiễn” đã tạo ra sự bứt phá về chất lượng nguồn nhân lực.

Các quốc gia Đông Bắc Á cũng để lại nhiều bài học sâu sắc. Hàn Quốc và Nhật Bản từ những năm 1960 đã coi giáo dục nghề nghiệp là nền tảng công nghiệp hóa, tạo ra lực lượng lao động có kỷ luật và kỹ năng cao. Trung Quốc từ thập niên 1990 đến 2000 đã tiến hành nhiều đợt sáp nhập, hợp nhất các trường đại học để giảm tình trạng manh mún và nâng cao hiệu quả nghiên cứu. Ở khu vực Đông Nam Á, Malaysia, Thái Lan và Philippines cũng đi theo xu hướng trao quyền tự chủ cao hơn cho các trường đại học, áp dụng hệ thống kiểm định chất lượng độc lập và tiến hành hợp nhất các trường quy mô nhỏ nhằm giảm chi phí và nâng cao hiệu quả quản lý⁴. Đây là những kinh nghiệm quý báu mà Việt Nam có thể tham khảo khi triển khai Nghị quyết 71.

dotpha1-1758931319.jpg
Những sự đổi mới trong giáo dục được hi vọng sẽ giúp cho sự phát triển con người ngày càng tiến bộ hơn

Tuy nhiên, để hiện thực hóa các mục tiêu đầy tham vọng, nhiều thách thức vẫn đang hiện hữu. Về tài chính, khi tỷ lệ chi giáo dục trên GDP còn thấp, việc hiện đại hóa cơ sở vật chất và nâng cao đãi ngộ cho giáo viên sẽ gặp không ít khó khăn. Về thể chế, hệ thống pháp luật về giáo dục còn chồng chéo, nhiều quy định thiếu tính khả thi, quản trị đại học chưa theo kịp yêu cầu tự chủ và trách nhiệm giải trình. Về đội ngũ, không ít giáo viên, nhất là ở vùng sâu vùng xa, có thu nhập thấp, áp lực nghề nghiệp lớn, thậm chí bỏ nghề, trong khi chất lượng đào tạo sư phạm còn chưa đồng đều. Ngoài ra, khoảng cách vùng miền vẫn là vấn đề nổi cộm. Ở nhiều tỉnh miền núi, tỷ lệ trẻ em bỏ học còn cao, cơ sở vật chất thiếu thốn, điều kiện tiếp cận Internet hạn chế, dẫn đến nguy cơ kéo dài bất bình đẳng trong giáo dục.

Để vượt qua những thách thức đó, cần đồng bộ nhiều giải pháp. Trước hết, Nhà nước cần từng bước nâng tỷ lệ chi cho giáo dục tiệm cận mức trung bình thế giới, ưu tiên cho đầu tư chuyển đổi số, nghiên cứu khoa học và đào tạo giáo viên. Tiếp đó, phải cải cách thể chế, loại bỏ cấp trung gian quản lý, giảm thủ tục hành chính, ban hành cơ chế đặc thù cho các cơ sở đào tạo trọng điểm, đồng thời mở rộng quyền tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình.

Cùng với đó, cần chú trọng phát triển đội ngũ, cải cách lương và phụ cấp, gắn thu nhập với chất lượng giảng dạy, tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, ngoại ngữ và kỹ năng số. Sự công bằng giáo dục phải được bảo đảm bằng cách đầu tư nhiều hơn cho vùng khó khăn, triển khai chính sách học bổng và hỗ trợ chi phí học tập cho học sinh, sinh viên nghèo. Ngoài ra, việc tăng cường hợp tác quốc tế, mở rộng liên kết đào tạo, trao đổi sinh viên và giảng viên, tham gia các mạng lưới kiểm định và xếp hạng quốc tế là hướng đi cần thiết. Song song với đó, vai trò thanh tra, giám sát cần được nâng cao hơn nữa, không chỉ dừng ở phát hiện và xử lý vi phạm mà còn chủ động cảnh báo sớm, xây dựng hệ thống dữ liệu giám sát, đánh giá chất lượng để đảm bảo các quyết sách giáo dục được thực thi một cách thực chất, công bằng và hiệu quả.

Nghị quyết 71-NQ/TW đã mở ra một giai đoạn mới cho nền giáo dục Việt Nam, giai đoạn của đột phá, tái cấu trúc, nâng cao chất lượng và hội nhập quốc tế. Chủ trương mạnh mẽ của Trung ương, sự chỉ đạo quyết liệt của Tổng Bí thư, Thủ tướng Chính phủ cùng sự giám sát của Thanh tra Chính phủ thể hiện khát vọng đưa giáo dục thực sự trở thành động lực then chốt của phát triển. Để hiện thực hóa mục tiêu này, cần sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của cộng đồng doanh nghiệp và sự đồng hành của toàn xã hội. Nếu làm tốt, đến năm 2035 Việt Nam có thể hình thành một nền giáo dục hiện đại,

công bằng và chất lượng cao; đến năm 2045 – kỷ niệm 100 năm thành lập nước – có thể tự tin đứng trong nhóm các quốc gia có nền giáo dục tiên tiến hàng đầu khu vực, góp phần xây dựng đất nước hùng cường và thịnh vượng.

Chú thích cuối trang

[1] The Global Economy. (2023). Vietnam: Public spending on education as percent of GDP. Truy cập tại: https://www.theglobaleconomy.com/Vietnam/Education_spending

[2] UNESCO Institute for Statistics (UIS). (2015). Vietnam National Education Accounts Report. Paris: UNESCO.

[3] World Bank. (2023). World Development Indicators – Government expenditure on education (% of government expenditure). Washington D.C.: World Bank.

[4] Mok, K. H. (2016). Higher Education Governance in Asia: Transformations and Challenges. Singapore: Springer.

[5] Lee, M. N. & Gopinathan, S. (2016). Education in Singapore: Development and Transformation. Singapore: Springer.

Trung Tướng.PGS.TS.Đồng Đại Lộc