Có sự sống dường như ông đã nỗ lực để nắm bắt nó như sự sống của các dân tộc vùng cao, trong kháng chiến và cách mạng như đã nói trên. Có sự sống lại tự nhiên mà đến, tự nhiên mà có, dường như không cần đến một nỗ lực nào. Tôi muốn nói đến một mảng đề tài về Hà Nội - ngoại ô, quê ông; cũng trong bối cảnh đó là sự sống động của những kỷ niệm, những chân dung, những phần đời sôi nổi hoặc tẻ nhạt, hanh thông hoặc trắc trở của tác giả.
Ở đề tài Hà Nội - quê ông, tức là Hà Nội ven đô, Hà Nội mà ông đã vừa trải rộng vừa đào sâu vào thế giới bên ngoài và bên trong của nó, Hà Nội ấy cũng vẫn cứ đi theo ông, dẫu ông đi bất cứ đâu, để thành hành trang cho ông, để mỗi lúc soi nhìn nó, ông lại thấy thêm bao điều mới lạ, cả trong ba chiều: Quá khứ, hiện tại và tương lai. Một Hà Nội - quê hương trong ba chiều thời gian, quả đã làm nên vóc dáng một Tô Hoài, cũng lực lưỡng không kém Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, và Vũ Bằng - những tên tuổi làm nên khuôn hình và chất lượng “người Hà Nội - văn Hà Nội”.
Trong bài Trả lời phỏng vấn của Tô Hoài trên một số báo Kiến thức ngày nay, năm 1992, do Lương Xuân Đoàn và Lê Xuân Sơn thực hiện, có đoạn: “Tôi thật mừng được bạn đọc tinh tế nhận ra như thế. Bởi vì, tuy viết lâu năm, viết nhiều, cho đến bây giờ đề tài chủ yếu vẫn là viết về người ngoại thành Hà Nội. Ở trong làng, xung quanh cứ tự nhiên mà vào mình, vì mình đã lớn lên, đã sống và hoạt động trong đó. Còn kỷ niệm nào sâu sắc hơn những sự việc mà chính mình từng trải”. Tôi chú ý thời điểm 1992 của bài phỏng vấn khi Tô Hoài đã ở tuổi ngoài bảy mươi. Ấy là tuổi đã quá đủ, quá thừa cho việc nhận rõ về mình; tuổi 72 với Cát bụi chân ai (1992), cho đến tuổi 79 ở Chiều chiều (1999) - ấy là sự trở về trọn vẹn của Tô Hoài với những miền thân thuộc,...
Nhưng sự thật thì không phải chờ đến thập niên chín mươi mà đã có sự chuẩn bị từ trước 1975. Không phải chờ đến khoảng cách mấy chục năm sau, nếu tính từ Cỏ dại là hồi ức Tô Hoài đã viết rất sớm ở tuổi hai mươi về tuổi thơ của cu Bưởi lên trọ học nhà người quen ở thành phố. Cái mạch hồi ức khởi đầu từ Cỏ dại này được Tô Hoài tiếp nối với Tự truyện năm 1978, khi ông cho in lại Cỏ dại, bên những hồi ký khác về tuổi học trò trong Mùa hạ đến, mùa xuân đi, rồi tuổi thanh niên thất nghiệp trong Đi làm, Hải Phòng, tuổi hăm hở tham gia hoạt động xã hội trong Một chặng đường,...
Hồi ức là lối văn nói về chính cái tôi, và sự cuốn hút là khi cái tôi ấy gợi được một điều gì đáng nói của cuộc đời. Ở đây có sự độc lập với nhau giữa “cái tôi” ngoài đời và “cái tôi” nghệ thuật. Có những cuộc đời rất sôi nổi, rực rỡ nhưng khi vào văn lại tẻ nhạt và dễ quên. Có cuộc đời tưởng chẳng có gì đáng nói mà lại gợi bao cảm xúc và suy ngẫm. Có gì vô vị và buồn chán hơn những ngày ra Kẻ Chợ của cu Bưởi, suốt ngày chỉ cọ đi cọ lại mấy cái chai, vẫn ra vẫn vào một cái lốp ô tô, rồi nhìn ra cửa, nhớ nhà; để chờ đến cuối năm mới được về cùng ông bà ngoại và các dì với cái đầu bị hắc lào mốc trắng mà chẳng có lấy một hột chữ nào nhét vào bụng. Được về với mẹ, với bà ngoại và các dì, và với việc cõng em, đó mới chính là niềm vui của Bưởi.
Cõng em và tha thẩn rong chơi trong làng - đó là công việc hằng ngày của một tuổi thơ cỏ dại. Cu Bưởi chẳng cảm nhận sự buồn tẻ hoặc đơn điệu gì ở đây cả - đó là chuyện của người lớn, cũng là của chính Tô Hoài mười mấy năm sau, khi viết Cỏ dại: “Bắt đầu những ngày lêu lổng. Được mãi thế thì thích. Rồi ngày sau tôi thành anh thợ dệt cửi như những đứa trẻ khác trong làng”.
Nhưng cu Bưởi “ngày sau” lại thành người viết văn, thành nhà văn tài năng, nên mới có hình ảnh cu Bưởi, hình ảnh tuổi thơ mình như trên! Có Tô Hoài, nên Cỏ dại bỗng trở thành một bổ sung độc đáo, làm mặn mà thêm cái dư vị buồn và mòn mỏi dần của xã hội người trong Nhà nghèo, Giăng thề, Xóm Giếng.
Giữ nguyên được cái nhìn như cái nhìn về Cỏ dại ngót ba mươi năm sau, Tô Hoài tiếp tục mở rộng bức tranh sống đến tuổi học đường của cu Bưởi trong Mùa hạ đến, mùa xuân đi. Gần như vẫn nguyên vẹn trong ký ức ông hình ảnh thầy giáo Tỏi cùng với lũ trò tinh quái trong cảnh thiếu ăn và nghèo chữ của họ. Cảnh thầy phạt trò bằng cách cho chúng tát vào mặt nhau bôm bốp, cảnh trò chăm sóc thầy bằng những tiệc chim sẻ,... được kể lại trong một hơi văn vừa ngộ nghĩnh, tức cười vừa bùi ngùi cảm động. Có thế mới là Tô Hoài! Và ta cũng chẳng cần để tâm xem, đó là Tô Hoài nào, Tô Hoài - cu Bưởi, Tô Hoài - cậu Sen, hoặc Tô Hoài - nhà văn. Những hồi ức của Tô Hoài rất giàu chi tiết sống và cảm xúc. Những hồi ức được ghi lại không phải chỉ bằng sự tươi rói của bộ nhớ mà còn bằng cái thấy, cái cảm của con tim. Những hồi ức bao giờ cũng hướng tới một nỗi niềm về nhân sinh và thế sự.
Đọc Nam Cao, thấy tiểu thuyết cứ như là tự truyện. Đọc Tô Hoài, lại thấy tự truyện cứ như tiểu thuyết. Hồi ức của Tô Hoài mở ra khá rộng các giới hạn sống. Nhân vật của ông - đó chính là ông, là cu Bưởi thích ẵm em và ham chơi; cậu học trò tinh nghịch, hiếu động; anh thanh niên đi tìm việc, không ngại đến những chỗ lam lũ hoặc dơ dáy,... Ở đây có Tô Hoài tự kể về mình, lại có một người khác cũng đang kể về Tô Hoài - và đó chính là cái làm nên chất truyện trong hồi ức Tô Hoài. Cu Bưởi chỉ mong lớn lên làm thợ cửi; anh thanh niên thất nghiệp đi Hải Phòng tìm việc sống trong chung đụng với đám gái điếm còm nhom; gã trai phiêu lưu với đám thanh niên gây gổ vừa hung hăng vừa nhát sợ - tất cả họ đều là Tô Hoài đang tự kể về mình và cũng là nhân vật Tô Hoài được nhà văn dựng lại. Người đọc hiểu sao cũng được.
Tự truyện - đó là một hồi ức được tổ chức thành truyện, để trở thành một chỉnh thể hiếm hoi về một tuổi thơ và tuổi trẻ vất vưởng trong kiếm sống và tìm đường trước Cách mạng. Đọc Tô Hoài ta bỗng ngạc nhiên không hiểu sao người ta có thể viết hay đến thế về mình, để qua mình mà hiểu người, hiểu đời, hơn thế, hiểu cả một thời - nó là bầu khí quyển chung cho biết bao là thế hệ. Cái vốn đó ai mà chẳng có; nhưng sao lại rất ít người có ý thức khai thác. Hiếm hoi lắm, đến cuối thế kỷ mới thấy có một vài cuốn, như Tuổi thơ im lặng của Duy Khán,...
Đọc Cỏ dại, rồi đọc Tự truyện trong khoảng cách hơn ba mươi năm không thấy có sự hẫng hụt hoặc ngắt quãng nào trong mạch hồi ức của Tô Hoài. Vẫn một trí nhớ tuyệt diệu. Một cảm hứng nhất quán. Một sự sống không chút vơi cạn trong kho hồi ức. Và một cái nhìn, vừa kín đáo bên trong vừa hiển lộ ra ngoài mà cho thấy rõ nét đến thế, một con người thật Tô Hoài và một nhân vật Tô Hoài. Vừa sát gần lại vừa lùi xa, và với những cự ly thích hợp, hồi ức Tô Hoài vừa mời gọi ta đến lại gợi lưu luyến lúc ta đi. Một hồi ức đọc với bao bâng khuâng, và mang theo một giá trị kép: vừa chịu sự ràng buộc của một sự thật cá biệt, vừa cho phép nới thêm các khoảng rộng của không gian và thời gian sống.
Không phải đến Tự truyện, nhưng cũng phải chờ đến Tự truyện mới bộc lộ rõ rệt tiềm năng giàu có này ở Tô Hoài. Chẳng phải vì cái kho hồi ức này dẫu có xa xôi đến mấy vẫn cứ sống động trong ông. Viết về tuổi thơ ở tuổi hai mươi, rồi cũng lại viết về chính tuổi thơ ấy, ở tuổi ngoài năm mươi, người đọc chẳng thấy ông với đi chút nào cái trữ lượng bên trong nơi ông. Không chỉ cái nhìn vẫn sắc nét mà cái tình vẫn giữ nguyên như thuở nào. Thành ra Tô Hoài không chỉ là người có sức nhớ kỹ, nhớ dai mà hơn thế, những cái sống, cái nhớ của ông là luôn dư đầy, là luôn luôn có mặt trong hiện tại. Một quá khứ luôn luôn được dồn về hiện tại, được hiện tại hóa - nhưng vẫn trong trang phục của quá khứ - đó là Tô Hoài. Một quá khứ lúc nào cũng có thể hiện diện, khiến cho ở thời đoạn nào, Tô Hoài cũng có thể viết về nó - đó là điều càng được chứng minh khi, sau Tự truyện (1978) ông lại cho ra mắt Cát bụi chân ai (1992) và Chiều chiều (1999). Hai cuốn sách cách nhau bảy năm, gần như là sự tiếp tục và xen cài nhau trên từng mảng hồi ức và kỷ niệm của nhà văn; gắn với các bối cảnh không gian, thời gian được mở ra khá rộng trên đường đời và công việc của Tô Hoài. Cho đến tập truyện Cái áo tế (2004) và tiểu thuyết Ba người khác (2006) cũng vẫn còn phảng phất không ít yếu tố tự truyện.
Đọc Cát bụi chân ai, rồi đọc Chiều chiều người đọc luôn luôn được cuốn hút bởi những gì mới mẻ, không trùng lặp, không nhạt mờ, không kém sút trong cái kho kỷ niệm của nhà văn. Chẳng lên giọng, cũng chẳng cần phải ra bộ khiêm nhường, Tô Hoài cứ tự nhiên mà kể về những gì mình đã biết, đã trải. Trên cái kho ít thấy dấu hiệu vơi cạn đó, Tô Hoài cứ nhẩn nha dắt bạn đọc cùng đi với mình, đến với những gì lạ mà quen hoặc quen mà lạ. Và chính với khả năng hoán đổi vị thế ấy mà làm nên sức hút của văn hồi ức Tô Hoài. Lạ chứ, chuyện ca sĩ Trần Khánh, người hát hay mà chưa học hát bao giờ, lại lận đận “vì lý lịch”, mỗi lúc lên sàn diễn, hai đứa con ngồi chầu hẫu phía trước rối rít giơ tay đánh nhịp theo bố... Lạ chứ, chuyện Nguyên Hồng, với món nem đặc biệt (làm bằng rau bà đẻ) sốt sắng đãi Tô Hoài, bởi cái “thằng xơi được bọ hung thì nó còn từ cái gì”. Hoặc với hành trình Nhà Nam - Hà Nội trên yên chiếc xe đạp thiếu nhi Liên Xô không phanh, màu xanh rợ cùng bộ râu xum xuê một cách khác thường ở tuổi năm mươi,...
Tôi đọc Cát bụi chân ai rồi đọc Chiều chiều với hứng thú không giảm, nếu không nói là còn tăng. Ấy cũng là sự lạ trong cái chu trình nói chung của nghiệp văn. Chẳng phải là cá biệt việc những tập hai, tập ba sút hẳn đi trong sức viết, khiến cho những bộ sách nhiều tập, vào bất cứ thời gian nào ở ta, cũng đều gây hồ nghi. Còn với Tô Hoài, đọc xong Chiều chiều, tôi vẫn cảm thấy ông còn trường vốn để viết. Còn bao khoảng sống mà ông chưa viết, hoặc chưa viết kỹ để cho ta sống tiếp những cuộc đời thường, những mảng đời thường mà thiếu nó, khó mà hình dung được với sự rõ nét và thú vị đến thế về những ngày sống của ta và những người quanh ta trong cái thế kỷ XX đầy những sự kiện sôi động này. Gần đây, nghe ông nói ông đang chuẩn bị một cuốn tiểu thuyết mới về thời bao cấp mà bộ nhớ thì gần như đã đầy ăm ắp, chỉ cần có sức khỏe để ngồi vào bàn - cái sức khỏe trời cho ở tuổi 88; và để gây hứng thú cho cuốn này ông đang đọc lại Đông Ky-hô-tê, và thấy phục sát đất cái ông nhà văn Tây Ban Nha vĩ đại này...
Cát bụi chân ai – hoặc cái tên ban đầu của nó: Trên cát dấu chân ai - những hành trình bằng đôi chân cùng dấu ấn của nó để lại trên đường đời. Việc đó ai mà chẳng có thể làm, khi có trong tay giấy bút; nhưng lại không dễ và rất hiếm người làm được. Bởi sống và khả năng ghi nhận sự sống là hai chuyện khác nhau. Ghi nhận - đó là nghề và tài năng. Nhiều người tưởng có nghề nhưng viết lại xoàng, hoặc viết dở (còn việc họ có ảo tưởng về mình lại là chuyện khác). Vậy ở đây, nghề phải đi kèm với sự khổ luyện, sự dùi mài và tài năng. Tức là khả năng nhìn, khai thác và biểu hiện, để - sao cho sự thật - cuộc đời trở thành sự thật - nghệ thuật. Tức là cái sự thật động được vào những cõi sâu của hứng thú, và gây được mỹ cảm trong tiếp nhận của người đọc. Sự thật ấy có thể lạ hoặc quen; nếu là lạ thì phải biến thành quen; hoặc đã quen thì phải lạ hóa nó - đó là cái thuộc tài năng và phẩm chất nghề nghiệp. Cố nhiên ngoài tài năng còn phải có bản lĩnh, và lắm khi còn cần đến sự dũng cảm. Bởi có lắm sự thật khiến cho ai đó ngại sợ; và do thế, để gọi được nó ra, để cho hết cái bí mật của im lặng, người viết cần rất nhiều bản lĩnh. Nói Tô Hoài, còn phải nói thêm cái bản lĩnh ấy./.