Cuốn sách do vậy có một đối tượng đọc rộng hơn, và tác dụng tuyên truyền lớn hơn, vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Hai mươi năm sau, một người con xứ Nghệ khác cũng sẽ viết một cáo trạng, nhân danh những người dân thuộc địa trên toàn thế giới, trong đó có người An Nam - cho người đọc phương Tây - đó là Bản án chế độ thực dân Pháp.
Sau Việt Nam vong quốc sử, Phan Bội Châu lần lượt viết tiếp Việt Nam quốc sử khảo, Việt Nam nghĩa liệt sử, và các truyện Tái sinh sinh, Chân tướng quân... Khu vực viết về các anh hùng, hào kiệt trong lịch sử, và những anh hùng đương đại là những người đồng thời với Phan luôn luôn là một nhu cầu thường trực trong Phan, bởi nhà chí sĩ luôn luôn khắc khoải một câu hỏi lớn về sự vô lý của một dân tộc có lắm hào kiệt như thế mà sao lại để mất nước? Luôn luôn Phan có nhu cầu tìm đến sự tập hợp, sự hội tụ mọi ngọn nguồn sức mạnh của dân tộc, gồm những người đương thời với Phan cho đến Hoàng Hoa Thám mà Phan cho là còn vĩ đại hơn cả Hoa Thịnh Đốn, Nã Phá Luân, và những người sau Phan như Đặng Thái Thân, Nguyễn Hàm, Phạm Hồng Thái..., trong số đó gương mặt Phan đặt nhiều kỳ vọng nhất là Nguyễn Ái Quốc, như trong bức thư đề ngày 13/3/1925 Phan gửi cho Lý Thụy - “người cháu yêu của tôi”.
Một bức thư như một chứng tích vô giá, vừa xác nhận sự tiếp tục các thế hệ cách mạng của đất nước, vừa biểu hiện mối thân tình trong khí hậu quê hương và gia đình của những người con xứ Nghệ một thời nước mất: “Thế mới biết cháu học vấn nhiều hơn, không phải như 20 năm về trước. Nhớ lại, khi trước tôi đến nhà cháu, uống rượu ngâm thơ, thì anh em cháu mới hơn 10 tuổi cả. Lúc bấy giờ tôi cũng chẳng ngờ rằng rồi ra cháu giỏi đến thế này. Bây giờ tôi bì với cháu thì xấu hổ nhiều lắm. Tiếp được của cháu hai phong thư, sự thương sự mừng đều có. Thương là thương cho mình tôi, mà mừng là mừng cho cả nước. Bây giờ gặp cháu thì thấy sau này có người kế khởi rồi. Đường tối mà thành ra sáng! Chỉ có điều tôi đã già rồi, sợ không được thấy nữa, như thế làm sao mà không thương lòng được? Một đời người tôi đau khổ, thui thủi một mình, nay được cháu giúp vào, có nhiều người theo, lấy lại nước nhà ắt là không khó, như thế thì sao mà không mừng được”.
Đi nhiều, tiếp xúc nhiều - không chỉ ở nhiều địa bàn trong nước mà còn là ở Nhật Bản, Trung Hoa, Xiêm... đó là một cuộc đi lâu nhất và dài nhất so với tất cả các chí sĩ cùng thời với Phan. Phải có những cuộc đi và sự rộng đường tiếp xúc như thế mới có thể đưa Phan lên vị trí một gương mặt hàng đầu của dân tộc trong hai thập niên đầu thế kỷ XX. Và ái quốc, ái chủng, ái quần - đó chính là mục tiêu hàng đầu cho mọi cuộc đi trong tìm kiếm của Phan (Nếu cả nước đồng lòng như thế/ Việc gì coi cũng dễ như không/ Không việc gì việc không xong/ Nếu không xong quyết là không có Trời). Miễn là có tấm lòng yêu nước và ý chí cứu nước, kể cả những người có khác chính kiến với Phan, đều được Phan trân trọng; và ở đây ta được chứng kiến một tình bạn thật quý giá giữa Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh - là người không đồng tình với phương sách bạo động và cầu viện của Phan. Trong 26 bài văn tế mà Phan viết cho các đồng chí, thì bài điểu Phan Chu Trinh là một trong số bài cảm động nhất.
Một người con xứ Nghệ đã rất sớm mở được tầm nhìn ra cả nước, và tiếp tục mở rộng tầm nhìn ra toàn khu vực Đông Á trong một thế giới đang đắm chìm dưới gót sắt của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Một con người xứ Nghệ luôn khát khao kiếm tìm, tiếp xúc với bạn bè, đồng chí, vì mục đích cứu nước mà gạt bỏ mọi sai biệt về chính kiến. Trước khi trở thành “Ông già Bến Ngự”, ở tuổi 58, hiếm ai có một cuộc sống và hành trình sôi nổi như Phan; và khi là “Ông già Bến Ngự”, Phan vẫn tiếp tục một sự nghiệp viết trong tình cảnh bị giam lỏng và nhận được sự yêu mến và tôn kính của các thế hệ đến sau; dẫu về mình, bao giờ Phan cũng nhận ra một sự đuối sức, không theo kịp những biến chuyển của thời cuộc. Câu cuối cùng trong bài thơ cuối cùng “từ giã bạn bè” của Phan, để lại cho đời, đó là:
Chúc phường hậu tử tiến mau!
Đi nhiều, tiếp xúc nhiều.
Và viết nhiều.
35 năm viết nếu tính từ bài thơ Xuất dương lưu biệt (1905), 43 năm viết nếu tính từ bài phú Bái thạch vi huynh (1897); những bài được công chúng truyền tụng Không kể trước đó là những bài mang tính khẩu khí của một thần đồng, hoặc một sinh đồ hay chữ.
Cả một đời viết, với trên dưới 40 bút danh, gắn với mục tiêu cứu nước và một hành trình xa xứ và xa quê - ngót 40 năm, Và khi đã là "Ông già Bến Ngự”, trong thân phận bị giam lỏng; cho dù có tự nghĩ mình là kẻ “sống thửa”, “sống tốn”, Phan vẫn tiếp tục viết, trong sự dồn tụ bao là năng lượng, cho đến thiên tự truyện Phan Bội Châu niên biểu và bài Từ giã bạn bè lần cuối cùng:
Những ước anh em đều bốn bể
Nào ngờ trăng gió nhốt ba gian
Sống xác thừa mà chết cũng xương tan
Câu tâm sự gửi chim ngàn cá biển.
Không ai là người đồng thời với Phan, và trong những bạn bè, đồng chí của Phan, gồm cả những tên tuổi lừng lẫy như Nguyễn Thượng Hiền, Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng. có một hành trình viết dài như thế, và dồi dào như thế trong đời hoạt động của mình. Chỉ một người thuộc thế hệ sau, vượt được Phan, với 30 năm xa xứ và 50 năm viết – đó là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Ở tư cách là nhà Nho chí sĩ, và hơn thế, ở tư cách người yêu nước số 1, Phan là người tìm được sự nhất trí tuyệt vời giữa mục đích sống và viết. Và bởi mục đích sống là cứu nước, nên tất cả những gì cần trang bị, cần sử dụng đều được Phan huy động triệt để, trong đó đương nhiên viết phải là phương thức cơ bản, thậm chí là bao trùm, bởi Phan là nhà Nho, là trí thức, là kẻ Sỹ. Khi chưa có thể hành động bằng vũ khí thì vũ khí chỉ có thể huy động là tiếng nói. Một vũ khí của tiếng nói lúc nào cũng có thể hiện diện; và đến được với mọi tầng lớp người đọc đang cần một sự đồng tâm và thức tỉnh.
Hiếm có, hoặc chưa có một nhà Nho nào ở đầu thế kỷ có được khả năng huy động tổng lực phương tiện văn chương - trên tất cả các loại và thể - gần như không sót bất cứ dạng nào để nhập cuộc, gồm đủ thơ, phú, văn tế, câu đối, văn xuôi - chính luận, thư từ, tạp ký, truyện lịch sử, liệt truyện, truyện danh nhân, tự truyện... Và ở bất cứ loại nào, Phan cũng đều để lại những tác phẩm xuất sắc, in rõ dấu ấn riêng của bản thân, và mang theo khí hậu của thời cuộc. Với bất cứ thể văn nào, ở vào hoàn cảnh nào, ngọn bút của Phan cũng sục sôi một bầu nhiệt huyết, mà đến thẳng với con tim khối óc người đọc, để dục dã và hối thúc họ dấn thân và hành động.
Qua hai tấm gương Tăng Bạt Hổ và Lê Khiết, sau khi được đọc Việt Nam vong quốc sử, ta thấy tác dụng của văn chương Phan là lớn đến thế nào.
Và không chỉ người Việt Nam, ngay cả nhiều bè bạn Trung Hoa, Nhật Bản cũng nhận được sự cầm hóa đó, khi họ được đọc Phan trên các báo chí ở Trung Hoa...
Một sự nghiệp viết không ngừng nghỉ và gắn với hành động, bởi con người Phan là con người hành động. Ngay cả khi Phan bị cầm tù hoặc giam lỏng thì sự nghiệp viết đó vẫn có giá trị kêu gọi hoặc khơi ngòi cho hành động.
Viết cho công chúng là đồng bào trên cả ba miền đang trong tình cảnh “chim treo trên lửa, cá nằm dưới dạo”, như trong Hải ngoại huyết thư (1905).
Viết về các danh nhân và anh hùng trong lịch sử, để thức tỉnh người sống, như trong Việt Nam quốc sử khảo (1908): “Trời đâu có lấy cái ách nô lệ quàng lên ta, đất đậu có lấy cái cùm nô lệ giam hãm ta? Thế thì cớ sao ta lại nô lệ? (...) Ôi! do yếu mà mất, mất mà diệt, diệt mà tuyệt! Thế tất nhiên là như vậy. Lý tất nhiên cũng như vậy. Nhưng nay của chưa hết, sức chưa phải đã tàn, còn có thể phấn chấn một phen để mưu ngày tái sinh”.
Lùi sâu hơn vào lịch sử là Trùng Quang tâm sử, với Lời đầu: “Đọc lại câu chuyện Bình Ngô phục quốc ngày xưa, ta thấy tổ tiên chúng ta sinh vào thời ấy, không một ai không anh hùng. Thế thì nòi giống anh hùng, hậu thân anh hùng chính là chúng ta. Chúng ta quên làm sao đặng!”.
Viết về những người đương thời, về các tấm gương người thật việc thật - những người vừa mới hy sinh hoặc đang còn sống và còn gieo hy vọng cho dân tộc - như Việt Nam nghĩa liệt sử, Tái sinh sinh, Chân tướng quân, Phạm Hồng Thái...
Viết cho bè bạn, đồng chí, các chiến hữu thân thiết của mình trong câu đối và văn tế. Viết về mình, và cho mình trong hai lần Tự thuật: Ngục trung thư và Phan Bôi Châu niên biểu.
Viết để chia sẻ, động viên, kêu gọi trong Thư gửi các giới đồng bào. Viết văn hư cấu trong bối cảnh văn xuôi hiện đại và nhu cầu của đời sống báo chí hiện đại như Duyên trời, Dao và dây, Anh Khờ, Kềnh và Càng, Lịch sử con Vá...
Và đương nhiên, thể văn chủ đạo đối với Phan vẫn là thơ - cả Hán và Nôm; và truyện, gồm các liệt truyện, tự truyện, và cả truyện ngắn, tiểu thuyết...
Tóm lại, một sự nghiệp viết được mở ra rất rộng trên các biên độ của đề tài và chủ đề, của chất liệu và thể loại, bởi sự cần thiết của lịch sử và nhu cầu thời cuộc mà Phan là người có dồi dào các tiềm năng đáp ứng. Và ở vào hoàn cảnh nào Phan cũng có thể vượt mọi câu thúc để có thể tìm được tự do cho việc viết. 15 năm cuối đời bị giam lỏng ở Huế, ngòi bút của Phan vẫn có thể tung hoành trên nhiều loại, riêng về thơ (Nôm và Quốc ngữ), Phan đã viết ngót 700 bài. Cái tài sản 700 bài này, xuất hiện cùng thời với Thơ mới, rất đáng được lưu tâm để thấy được một toàn cảnh thơ 1930-1945 trong tiến trình hiện đại hóa. Hãy đừng quên những gắng gôi của một thế hệ tiền nhân không cam chịu lùi lại hoặc bị gạt ra ngoài con đường đi của lịch sử.
Viết và viết - một sự nghiệp viết không ngừng nghỉ, để có một phẩm chất mới trong tương quan với thời cuộc; để đón trước, và để theo kịp nhu cầu thời cuộc, như ở Phan trong ngót 40 năm; một sự nghiệp viết đứng ở hàng đầu về khối lượng và chất lượng so với những người cùng thời và các bậc tiền bối của Phan}. Một sự nghiệp viết như vậy cần phải giải thích như thế nào, khi được biết tác giả của nó là người từng tâm niệm và tán đồng hai câu thơ của Viên Mai:
Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch
Lập thân tối hạ thị văn chương.
Văn chương chỉ có thể nằm ở bậc thấp nhất cho sự lập thân ư? Câu hỏi sẽ được trả lời, nếu ta hiểu (và sự thật thì ai mà không hiểu) Phan có bao giờ nghĩ đến việc lập thân cho riêng mình, khi cả cuộc đời Phan, tất cả mọi khả năng, tiềm năng của Phan là giành cho dân và nước, là chỉ một mục tiêu cứu nước. Và khi tất cả đã là thế, thì văn chương - như một bộ phận của hành động, của hoạt động cũng là thế. Bao trùm trọn vẹn cuộc đời Phan là một kiểu văn chương như thế, nhất quán từ khi là cậu bé chơi trò chơi bình Tây, viết hịch Bình Tây thu Bắc cho đến Lời từ giã bạn bè lần cuối cùng. Hiểu như vậy sẽ thấy không có gì là mâu thuẫn hoặc khó hiểu trong sự nghiệp văn chương của Phan; và giá trị thứ văn chương “đuổi giặc” ấy sẽ có một vị trí vinh quang, không phải cho sự lập thân của một người, mà cho chính sự tồn vong của một dân tộc.