Tú Mỡ, người thầy của thơ trào phúng và biếm họa (Phần 3 và hết)

Tú Mỡ về hưu ở tuổi sáu mươi hai. Về hưu - đối với nhiều người quả là một bước ngoặt, nhưng đối với Tú Mỡ, từ tuổi sáu mươi hai đến tuổi bảy mươi sáu, năm ông qua đời, dường như dòng đời vẫn tuôn chảy một cách cần mẫn, nhịp nhàng.
nha-luu-niem-nha-tho-tu-mo-300x225-1737551952.jpg
Căn nhà ở đường Láng, nơi gia đình Tú Mỡ từng sinh sống. Ảnh: Bảo tàng Văn học Việt Nam

Cái cảnh về hưu sướng sướng rơn

Làm thơ mệt óc lại làm vườn

Ngắm đàn cháu bé đùa như ngụy

Tiếp bạn làm thơ chuyện “Chúa ôn”

Ít họp ít hành xương đỡ mỏi

Năng mài năng dũa bút chưa cùn.

Ngôi nhà và khu vườn ở Láng của ông vẫn là nơi thường xuyên qua lại của các bạn bè, đồng nghiệp; vẫn là nơi mà nhóm thơ trào phúng, gồm những Phú Sơn, Thôi Sơn, Lã Vọng, Nguyễn Đình, Huyền Thanh, Ngô Linh Ngọc... thường xuyên họp mặt để góp ý bài vở, khơi gợi đề tài, trao đổi kinh nghiệm, tạo hứng sáng tác... Khỏi phải nói ông vẫn cứ là linh hồn của nền thơ trào phúng đánh địch của văn học Việt Nam trong phần nửa sau thế kỷ này.

Cũng phải nói thêm là vào tuổi sau sáu mươi, một mạch trữ tình trong thơ ông đã bước đầu được khởi động, trước hết là trong cảnh sống gia đình:

Ta là thủ trưởng tại gia; Vợ là cấp dưỡng, con là giao thông; Cháu là thường trực “lông tông”; Khi nào có khách mời ông vào nhà.

Cố nhiên đã gọi là thơ Tú Mỡ thì làm sao mà mất đi được cái vui hóm vốn có trong máu thịt của ông và thơ ông, nhưng khi trở về đời sống gia đình, bè bạn, nó đã xen lẫn với trữ tình. Sau vui hóm, trong vui hóm là những buồn vui thường nhật của cuộc đời, đặc biệt là khi bà Tú mất vào năm 1968. Bà Tú, người vợ tuyệt vời của ông, người giúp và thay ông quản một gia đình lớn, người biết chiều chuộng mọi thói quen và sở thích của ông, người còn được ông coi là “nàng thơ của tôi”. Bà Tú qua đời đột ngột ở tuổi sáu mươi tám, khiến cho con người suốt đời chỉ có cười, gần như chưa bao giờ khóc là ông Tú bỗng lần đầu tiên trong đời tuôn rơi nước mắt trong bài thơ Khóc người vợ hiền dài 114 câu... Đó là bài thuộc loại dài nhất trong các thi phẩm của ông và cũng là bài khóc người thân, thuộc loại dài trong văn chương cổ điển và cận đại:

Ôi, duyên nợ thế thôi là hết

Năm mươi năm thắm thiết yêu nhau

Bà về trước, tôi về sau

Thôi đành tạm biệt, nuốt sầu gượng vui.

Một mạch trữ tình sẽ được tuôn chảy từ đấy trong thơ Tú Mỡ, để cho bất cứ ai thuộc thế hệ cha mẹ và ông bà đều có thể tìm thấy biết bao là nguồn vui và cảm động, trong những vần thơ, bài thơ viết về đàn cháu của ông. Ta lại có dịp nhớ đến Nghệ thuật làm ông vốn là tên một tập thơ nổi tiếng của Huygô viết vào tuổi già. Tuổi già và tuổi thơ như là sự gặp gỡ của hai đầu mút cuộc đời. Tú Mỡ lại như một tiên ông trong cổ tích để chuyện trò với các cháu, để phân xử, để động viên và an ủi các cháu, để răn dạy chúng bằng tục ngữ, ca dao và chính bằng thơ vui mà đằm thắm tình cảm của mình. Tuổi già hạt lệ như sương. Nhưng tuổi già cũng luôn luôn cười vui hoặc vui lây cái cười của con trẻ như trong Vịt con trong vườn trẻ, Ông và cháu, Con “em chị”, Thương ông, Một trò chơi không thành...

Cũng không thể quên mạch thơ ông viết về bạn, về tình bạn trong các dịp lễ thọ, hoặc trong những dịp cùng nhau vào nơi “tạm trú” - là Bệnh viện Việt Xô - nay là Bệnh viện Hữu nghị. Đó là những bài như bài thơ ông “viếng sống” Hoàng Ngọc Phách:

Đây thằng bố lếu thơ tinh nghịch

Đấy bạn “cô le” nghĩa cũ càng

Bác thượng thọ rồi tôi cũng thượng

Bác ra tàu trước đệ còn khoan

Những bài nhân dịp thượng thọ Đặng Thai Mai, Thế Lữ, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan và nhất là Nguyễn Công Hoan - nhà văn trào phúng đặc sắc, người có tình bạn cũng rất lâu năm với Tú Mỡ. Đôi bạn đã bao lần vào - ra bệnh viện, không lần nào là không có thơ xướng họa và bài thơ cuối cùng Tú Mỡ viết cho Nguyễn Công Hoan vào ngày 24 tháng 6 năm 1976, trong bệnh viện, mà không kịp nhận bài họa lại của bạn, là bài có tên Tặng... con mắt bác Hoan: Bác không tham sắc, chẳng tham tài; Cái mắt sao nhìn một hóa hai; Bác gái vào thăm duy có một; Con ngươi nhìn chệch hóa thành đôi...

Cũng sẽ là thiếu sót nếu không nói đến niềm vui và chất lạc quan không lúc nào không dồi dào nơi Tú Mỡ. Con người bảy mươi sáu tuổi đời, từng trải bao vất và trong cuộc sống, nhưng không bao giờ vắng nụ cười vui hóm, vui với đời, vui với bè bạn, vui với nghề nghiệp, vui với mình, vui với con cháu và gia đình... Cũng nên biết thêm ông từng có lúc bị Tây bắt giam ở bốt Phù Lưu Tế, suýt bị đưa về Nhà Tiền; may nhờ kịp thủ tiêu cái cặp tài liệu quý, lại biết tiếng Tây để thông dịch giúp chúng, nên rồi được thả. Trên vai, một gánh nặng gia đình; trong số tám con và ngót ba chục cháu tính cho đến khi bà Tú mất, và trong ngót chục năm sống vắng bà, hẳn không phải tất cả mọi chuyện riêng - chung đối với ông đều suôn sẻ, em vui. Tuổi già lại đi kèm với ốm đau, bệnh tật... Tất cả đó khiến con người không dễ lúc nào cũng có thể vui. Nhưng Tú Mỡ vẫn có thể được xem là con người hiếm hoi luôn luôn tạo được niềm vui cho mình theo tinh thần hai câu thơ của Hồ Chủ tịch: “Tự cung thanh đạm tinh thần sảng; Tố sự thung dung nhật nguyệt trường” mà ông chọn làm đôi câu đối treo nơi gian thờ.

Con người đó đã làm thơ chúc mình ở tuổi sáu mươi:

Đọc chữ chưa cần giương bốn mắt

Ra đường chưa phải ghép ba chân

Xe “Pơ-ra-ha” đạp vẫn cứng gân

Cuốc vườn tược vẫn chưa hề rão cốt

chiec-xe-dap-cua-nha-tho-tu-mo-1737552060.jpg
Chiếc xe đạp của nhà thơ Tú Mỡ. Ảnh: Bảo tàng Văn học Việt Nam

Rồi tuổi bảy mươi:

... Vẫn cứ là anh Tú

Đã thấy mình lụ khụ tý nào đâu!

Ria mới hoa râm, sương mới điểm đầu

Răng mới rụng có vài ba bốn cái

Lưng chưa mỏi, gối chưa chùn, gân chửa sái

Ngựa sắt còn phi nước đại băng băng.

Qua tuổi bảy mươi ba:

Ăn mừng sinh nhật bảy mươi ba

Khoái tỷ thấy mình cứ trẻ ra

Cảnh thú điền viên tiên thật đấy

Chỉ duy thiếu thốn một tiên bà.

Đầu bảy lăm ông làm thơ về việc Hội Nhà văn chuẩn bị làm ma... hụt cho mình và đề nghị:

Lần sau có định làm tang lễ

Thì xin tổ chức đám ma... vui

Con người đó - nhà thơ Tú Mỡ quả đã sống trọn một cuộc sống vui và lạc quan. Vì cả một đời, ông đã có thể theo đuổi những công việc đúng với sở nguyện của mình. Cả một đời được sống vui trong đại gia đình và trong nhiều lớp bạn bè tri kỷ - những bạn bè không phải chỉ trong giới văn chương, mà cả những người của các tầng lớp lao động, từ trẻ đến già, từng yêu mến và ngưỡng mộ thơ ông. Cả một đời có không ít bài làm ra được nhân dân đón nhận như một món ăn tinh thần vừa vui, vừa bổ ích...

Tú Mỡ - nhà thơ xứng đáng tiếp nối văn mạch trào phúng của dân tộc, kể từ Hồ Xuân Hương đến Tú Xương. Thơ ông đã góp phần lưu lại thành “bia miệng” những chuyện nhố nhăng, ngang trái trong bức tranh xã hội trước 1945. Ông còn là người có ý thức sâu sắc trong việc đưa thơ trào phúng đóng góp cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước trong suốt cả một đời thơ không lúc nào nản mỏi của mình.

Ở đây chúng ta không làm cái việc so sánh ông với Tú Xương, người mà ông luôn luôn tôn là bậc thầy. Điều ấy lúc cần cũng có thể làm và việc làm đó chắc cũng không khó lắm. Điều cần là việc xem xét sau ông còn ai? Sau ông, người có khả năng tiếp nối sự nghiệp của ông hôm nay là ai?

GS Phong Lê